Page 175 - Kiến Trúc Đình Chùa Nam Bộ
P. 175
hợp lý cũng là mấu chốt quan trọng cho sự tổn tại các giá trị di tích. Các biện pháp
quản lý di tích kết hợp giữa cơ quan chức năng chuyên môn và người trực tiếp sử dụng
di tích cũng cẩn được nghiên cứu kỹ lưỡng, dựa trên cơ sở lợi ích cộng đồng và lợi ích
quốc gia, trước khi áp dụng.
Ngoài ra, mờ rộng phạm vi giá trị văn hóa kiến trúc ra cộng đổng dân cư thành không
gian văn hóa bên cạnh không gian cư trú, kết hợp giữa bản sắc truyền thống với nhu cầu
đương đại, giữa giá trị sử dụng của di tích văn hóa kiến trúc với hoạt động thực tiễn... là
rất cẩn thiết.
Việc duy tu và bi’io quản di tích là trách nhiệm chung của toàn dân, của Nhà Nước;
trong đó, người trực tiếp sử dụng và nhóm người được giao phó quản lý là những dại
biểu dại diện cho Nhà Nước và nhân dân trong công tác duy tu bào tồn.
Bao chặng đường lịch sử đã đi qua, người dân Nam Bộ còn lại những gì trong thực tế
và ký ức, làm hành trang tiến bước vào thiên niên kỷ mới? Cái gì sẽ là “nội lực”, là “lá
chắn” bảo vệ bản sắc Việt Nam? Đó là những suy tư của bao người dân Việt khi đối đầu
với một thực tế trước mắt là phải “hội nhập” vào công đổng quốc tế, phải tiếp thu nhiều
thành tựu vãn minh, khoa học, vãn hóa hiện dại cùa các nước tiến bộ. Trước thực tế ấy,
những ưu tư cùa nhân dân Việt Nam hoàn toàn dúng, một nguy cơ “hòa tan” rất có thể
xảy ra nếu như trong mỗi người dân Việt không tự chủ bảo vệ chính mình, bảo vệ văn
hóa truyền thống của ông cha.
Ngay sau thời kỳ mở cửa, trước những vật chất hiện đại nước ngoài vừa du nhập đến,
chúng như những “làn gió mát” xoa dịu nỗi cơ cực, thiếu thốn sau những tháng ngày xây
dựng và củng cố đất nuớc trong ihời hậu chiến; một bộ phạn không nhỏ người dân đã
nảy sinh tư tường “vọng ngoại tuyệt dối”, tư tuờng này cho đến nay vẫn còn. Họ quay
lưng lại với quá khứ và văn hóa truyền thống đã từng được Tổ tiên Việt Nam dày công
vun bồi qua hàng ngàn năm với bao mất mát, hy sinh. Đầu óc “sính ngoại” đã thành căn
bệnh phổ biến trong một sô' người dân Việt đương thời. Sau hơn 15 năm đổi mới và phái
triển, nhìn chung, nhu cầu vật chất tối thiểu cùa dại đa số nhàn dân đã được đáp ứng,
nhiều công nghệ tiên tiến đã được cập nhật, nhiều nét dẹp văn hóa vãn minh hiện đại đã
được du nhậpũ Nhưng trong hàng loạt những cái mới ấy, một bộ phận không nhỏ người
Việt dã tiếp thu một cách vội vã thòng qua hình thức hỗn dung và tiếp biến, ít có sự sáng
tạo, nâng cao trong biểu hiện. Chính vì vậy, trong lĩnh vực kiến trúc, rất nhiều hình thức
công trình mang dáng vấp hiện đại, lạ mắt, nguy nga, hào nhoáng... đã được “hội” tụ,
nhưng phần lớn chúng chưa “nhập” vào lòng người, chưa “nhập” vào ký ức vãn hóa
truyền thống của đại đa số người dân Việt Nam. Đây là lo lắng chung của mọi người
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Một chủ trương dúng dắn được Nhà nước đưa ra như
một phương châm hành động trong thời kỳ mỏ cửa, đó là “xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”.
176