Page 20 - Dinh Dưỡng Dự Phòng Các Bệnh Mạn Tính
P. 20

Dinh dưỡng dự phòng các bệnh mạn tính


          gạo nhưng từ đầu những năm  90,  nưốc ta đã đủ gạo ăn  mà còn
          có để xuất khẩu.  Chê  độ  phân  phối  thực  phẩm  theo  tem  phiếu
          đã chấm dứt nhường chỗ cho sự lựa chọn thực phẩm  tự do trên
          thị  trường.  Điều  đó  đã  tạo thuận  lợi  cho  sự  thanh  toán  một  số
          bệnh  dinh  dưỡng  như  tê  phù  do  thiếu  vitamin  Bj  (do  ăn  gạo
          mốc,  gạo  tấm,  gạo  kém  chất  lượng),  giảm  tình  trạng  suy  dinh
          dưõng  sau  thiên  tai  do  đói,  bữa  ăn  của  người  dân  đưỢc  cải
          thiện hơn.
              Khẩu phần thực tế trung bình đang thay đổi theo  mô hình
          chung  của  các  nước  ở  thòi  kỳ  chuyển  tiếp;  lượng  lương  thực,
          khoai củ, rau giảm; lượng thịt, chất béo, trứng,  sữa tăng lên rõ;
          lượng cá và thủy sản không thay đổi.

              Đồng  thời,  nhiều  loại  bệnh  mạn  tính  của  thời  kỳ  mói  đã
          tăng  rõ  rệt,  trở  thành  mổì  quan  tâm  cao  của  cộng  đồng:  thừa
          cân và béo phì, đái tháo đường, tăng huyết áp,  một sô" bệnh tim
          mạch, loãng xương ...

              Trong bối cảnh  đó,  nếu  để tình  hình  diễn biến  một cách  tự
          phát,  chúng  ta  sẽ  lặp  lại  quá  trình  của  nhiều  nước  phát  triển
          đã  từng  trải  qua  sau  Thế chiến  thứ  hai:  đó  là  sự  tăng  nhanh
          lượng  thịt,  lượng  chất  béo  trong  khẩu  phần,  cùng  vối  sự  gia
          tăng  các  bệnh  tim  mạch,  đái  tháo  đường,  béo  phì...  Bài  học
          thành công của  nhiều  nước  đã  phát triển  cho  thây dinh  dưỡng
          dự phòng phải là thành tố thiết yếu trong chiến lược kiểm  soát
          các bệnh mạn tính đó (2, 21, 42).
              Dưới  đây  chúng  tôi  xin  đề  cập  đến  một  sô"  vâ"n  đề  quan
          trọng nhất:

          1.  Suy  dinh  dưỡng  Protein  -  năng  lượng  (PEM)  ò  trẻ  em  vẫn
          còn  là một thách thức quan trọng  hàng đẩu

              Trong  nhiều  năm  qua,  đặc  biệt  từ  khi  có  Kê  hoạch  Hành
          động Quốc  gia về Dinh  dưỡng (1995)  và Mục tiêu  Phòng chô'ng
          Suy  dinh  dưỡng  Trẻ  em,  tỷ  lệ  suy  dinh  dưởng  ỏ  trẻ  em  Việt
          Nam đã giảm nhanh hơn trưốc đây, liên tục và bển vững.



          20
   15   16   17   18   19   20   21   22   23   24   25