Page 18 - Dinh Dưỡng Dự Phòng Các Bệnh Mạn Tính
P. 18
Dinh dưỡng dự phòng các bệnh mạn tính
lương thực và có gạo để xuất khẩu. Đã xuất hiện những biểu
hiện của thòi kỳ chuyển tiếp vê dân sô học, dịch tễ học và cả vê
dinh dưõng học. Hiện tượng gia tốc trong tăng trưởng của con
người Việt Nam đã được nhìn nhận.
Một cách khái quát, thời kỳ chuyển tiếp về dinh dưỡng bắt
đầu khi nạn đói về cơ bản đã đưỢc xóa bỏ, chê độ ăn uốhg thay
đổi một cách nhanh chóng theo thu nhập và lối sông, ớ nhiều
nưốc đang phát triển đã xuất hiện khuynh hướng chế độ ăn
phương Tây hóa cùng với sự tăng sử dụng thịt, chất béo, đường
ngọt, các thức ăn tinh chế và giảm sử dụng lương thực, khoai củ
và các thực phẩm có nhiều chất xơ. Thật ra, tổ tiên loài người cả
phương Đông và phương Tây đều trải qua thời kỳ đói ăn, nghèo
khổ. Bài học mà các nưốc phát triển phương Tây rút ra được là
tình trạng dư thừa vê thực phẩm, sự hoàn toàn thoải mái vê ăn
uô"ng có thể đưa lại những hậu quả không mong muốh, những
vấn đê sức khỏe của một "xã hội thịnh vượn^'.
Nghiên cứu ở vùng châu Á - Thái Bình dương và ở các nước
đang phát triển khác cho thấy trong thời kỳ chuyển tiếp có các
đặc điểm chính như sau (2i);
- Sư th a y đôi vê cấu trú c k h ẩ u p h ầ n
Nhìn chung khẩu phần thay đổi từ một chê độ ăn dựa vào
ngũ cốic, khoai củ, rau, có ít thức ăn động vật chuyển sang một
chê độ ăn có lượng thịt, trứng, sữa, chất béo và đường ngọt
tăng dần, lượng lương thực giảm đi. Một mặt, đó là một chế độ
ăn đa dạng hơn nhưng m ặt khác tăng lượng thức ăn động vật
kèm theo tăng chất béo, các acid béo bão hòa và cholesterol. Sự
thay đổi đó còn phụ thuộc theo tình hình từng nước, ví dụ ở
Trung Quốc lượng thịt trong khẩu phần tăng nhanh, ở Ân Độ
tăng nhanh sữa và chế phẩm còn ở Hàn Quốc chế độ ăn truyền
thốhg còn được áp dụng rộng rãi với mức sử dụng chất béo, sữa
thấp so với thu nhập. Điều đó nói lên ảnh hưởng của tập quán
và chính sách dinh dưõng ở mỗi nưốc.
18