Page 192 - Dinh Dưỡng Dự Phòng Các Bệnh Mạn Tính
P. 192
Dinh dưỡng dự phòng các bệnh mạn tính
thịt, giò, chả, trứng vịt lộn... mà chưa để ý rằng thịt không
phải là nguồn calci tô't. Chế độ ăn nhiều thịt, nhiều protein
làm rỐl loạn cân bằng calci, ảnh hưởng xấu đến quá trình cô’t
hóa. Đối với trẻ em, sữa và chế phẩm (chứ không phải thịt) mới
là nguồn protein và calci quí giá. Mặt khác, trong điều kiện bữa
ăn được cải thiện thường lượng protein (thịt) tăng không song
song vối lượng calci (rau, sữa và chế phẩm) nên có thể làm tăng
nguy cơ loãng xương ở cộng đồng. Do đó, trong điều kiện hiện
nay, nhu cầu khẩu phần hàng ngày cần nhiều calci hơn.
Vitamin D, đồng, kẽm, M angan, íluor là các yếu tô" ảnh
hưởng tới tích chứa calci ở xương.
Một chê độ ăn có đủ rau quả, sữa gầy cung cấp đủ các châ"t
dinh dưỡng cần thiết cho quá trình tạo xương.
Ó một sô" đôi tượng, nhu cầu calci cần được bổ sung, đó là
thanh thiếu niên, phụ nữ ở thời kỳ có thai và cho con bú. Một
người mẹ nuôi con bú 6 tháng có thể mât 4 - 6% lượng calci của
xương nếu không được bổ sung thích hỢp.
Tuổi già (cả nam và nữ) liên quan tới quá trình giảm
khoáng xương và tăng nguy cơ gãy xương. Tuy vậy, cho tới nay
ở lứa tuổi này mới chú ý tới mức calci ăn vào nhưng gần đây
trọng tâm đã chuyển sang đảm bảo đủ vitamin D cho họ.
Người già thòi gian tiếp xúc vối ánh nắng mặt trời giảm đi,
mức vitam in D thấp hơn khi còn trẻ do đó chê" độ ăn cần có đủ
vitam in D, thông thường là các loại sữa bột có tàng cường.
Quá trình giảm khoáng sau khi mãn kinh phụ thuộc nhiều
vào lượng oestrogen nhưng sau đó chê độ ăn đủ calci có vai trò
tích cực, đặc biệt khi đi kèm vitam in D. Nhiều bằng chứng cho
thấy duy trì một chê' độ dinh dưỡng calci hỢp lý thường xuyên
có lợi hơn là chỉ tập trung vào một thời kỳ nhất định và cũng
không có càn cứ để cho rằng ở một lứa tuổi nào đó càng nhiều
calci càng tốt (lượng calci tối 2500 mg mỗi ngày nói chung an
toàn nhưng quá nhiều lại là yếu tô" nguy cơ của sỏi thận) (25).
189