Page 103 - Dinh Dưỡng Dự Phòng Các Bệnh Mạn Tính
P. 103

Dinh dưỡng dự phòng các bệnh mạn tính


          Công tác chăm  sóc  người  mẹ  trong chiến  lược  phòng chông
      suy  dinh  dưỡng  trẻ  em  cần  được  nhấn  mạnh  và  cụ  thể  hơn.
      Trong thòi  kỳ  bào  thai,  sức  khỏe  và  sự  phát  triển  của  thai  nhi
      phụ  thuộc  tất  cả  vào  người  mẹ,  mà  những  người  phụ  nữ  nói
      chung  dù  đang  mang  thai  vẫn  có  tính  nhường  nhịn  chia  xẻ,  ít
      khi  đòi  hỏi,  dù  là  quyền  lợi  cho  thai  nhi  trong bụng.  Kiểm  soát
      suy  dinh  dưỡng bào  thai  đòi  hỏi  phải  cụ  thế  hóa  các  hoạt  động
      chăm  sóc người  mẹ trước khi sinh và thời kỳ đó phải dành  đưỢc
      vị  trí và  có  nội  dung  hoạt  động  cụ  thể  như  sau  khi  đứa  trẻ  ra
      đòi. Chúng ta thường nói sữa mẹ là thức ăn tót nhất cho đứa trẻ
      sau khi  sinh vậy thì trước khi  sinh,  thai nhi phải được nuôi thế
      nào và cách theo dõi chất lượng nuôi dưỡng thai nhi ra sao?

          Chúng  ta  cũng cần  xem  xét  vấn  đê  phòng chống  suy  dinh
      dưỡng  và  kiểm  soát  các  bệnh  mạn  tính  liên  quan  đến  dinh
      dưỡng trong bốì cảnh của  thời kỳ chuyển tiếp. Rõ ràng là trong
      10 năm trở lại đây song song vối tăng trưởng kinh tế, điều kiện
      dinh dưỡng của  nhân  dân ta  đã  được cải thiện từng bưốc,  đồng
      thòi  cũng  đã  xuất hiện  tình  trạng  ăn  uô"ng  "dư  thừa"  ở  một  sô"
      tầng lớp trong xã hội.  Nhiều bệnh  mạn tính liên quan đến dinh
      dưỡng  có  xu  hưống  gia  tăng  nhanh,  trước  hết  là  tình  trạng
      thừa  cân,  béo  phì  và  bệnh  đái  tháo  đường.  Kinh  nghiệm  ở
      nhiều  nước  phát  triển  cho  thấy  sự  gia  tăng các  rối  loạn  thuộc
      hội chứng chuyển hóa X thường đi qua một thòi kỳ tiềm ẩn hay
      còn  gọi  là  thế  hệ  "trăng  mật"  (honey-moon  generation)  có
      nghĩa là các biểu hiện bệnh lý và biến chứng có phần nhẹ, lành
      tính  nhưng thường là  sau  một th ế hệ  sẽ xuất hiện thời kỳ kịch
      phát  với  các  biến  chứng  nặng  nê  hơn  (như  mù,  suy  thận,  cắt
      cụt  chi  ở  bệnh  đái  tháo  đường).  M ặt  khác,  ở  thời  kỳ  này,  sô"
      người bệnh được chẩn đoán thâ"p hơn nhiều so với sô" người mắc
      và  thường  được  chẩn  đoán  ở  giai  đoạn  muộn,  khi  đã  có  hiến
      chứng.  Do  đó,  chúng  ta  cần  tăng  cường  cảnh  giác  với  thời  kỳ
      tiềm  ẩn,  th ế  hệ  "trăng  mật"  mà  cần  triển  khai  sớm  và  chủ
      động công tác dự phòng và kiểm  soát các bệnh  mạn tính có liên
      quan đến dinh dưỡng.


                                                                 101
   98   99   100   101   102   103   104   105   106   107   108