Page 422 - Dinh Dưỡng Cận Đại
P. 422
r-BST) đề tăng lượng sản xuất sữa của bò. Tuy nhiên trong quá trình chọn lọc mong
muốn đạt đưỢc những thay đổi tiến bộ trong quá trình phát triển vật nuôi, cây
trồng sẽ có thể hình thành kết quả không mong muốn.
Thí dụ chuyển gen tạo albumin từ cây hạt có dầu của Brazil (Brazil nut) sang
cây đậu tương để tăng hàm lượng acid amin có chứa sulfur như methionin và
cystein, nhưng lại chuyển cả gen protein gây dị ứng từ hạt có dầu brazil sang cho
đậu tương (25) và năm 1992 PDA Hoa Kỳ đã ban hành quy định phải ghi trên nhãn
sản phẩm nếu thực phẩm chuyển công nghệ gen có gây dị ứng (26). Công nghệ thể
hiện gen luôn phụ thuộc vào sự hỢp thành gen (makeup) trong cơ thể, và gen mới
hình thành có thể sẽ gây độc hại cho ngưồi tiêu dùng do đó, các sản phẩm công
nghệ gen khi được sử dụng làm thực phẩm cho người và gia súc, rất cần phải đưỢc
kiểm tra độc hại hoàn chỉnh vói các sô" liệu tin cậy.
8. Estrogen thực phẩm
Thuộc loại chất độc môi trường có thể làm thay đổi điều hoà nội tiết trong cơ thể
và được gọi là chất phá vỡ nội tiết.
Một số chất hoá học môi trường với hoạt tính động dục (estrogenic activity) đã
tác động tới giới tính, thái độ, hành vi, khả năng sinh sản và sinh ung thư (27). Các
chất tác động động dục thường gặp trong một sô" chủng loại thực vật mọc hoang
hoặc gieo trồng đã gây giảm sô" lượng tinh trùng, trong một sô" cộng đồng dân cư 40
năm qua đã gây ung thư vú và bệnh lạc màng trong tử cung. Nếu tác động phá vỡ
tuyến nội tiết động dục lâu dài sẽ dẫn đến xảy thai và ung thư cổ tử cung, ung
thư tinh hoàn và tuyến tiền liệt (28). Một thí dụ khác là trứng chim gà sẽ có vỏ
mỏng khi thức ăn chăn nuôi có lượng DDE cao là dẫn xuất chuyển hoá của DDT
(29).
9. Kết luận: Bảo vệ sức khoẻ cộng đồng và nhiệm vụ của ngành y tế
Đánh giá nguy cơ ô nhiễm các chất hoá học luôn là nhiệm vụ trọng tâm của
ngành y tê và các ngành có liên quan nhằm kiểm tra phát hiện các hoá châ"t gây ô
nhiễm môi trường đã tác động tới sức khoẻ con người và động vật nuôi trong quá
trình phát triển và trưởng thành. Các hoá chất độc hại thường gặp phổ biến và có
lượng cao là ở môi trường không khí nước và đất so vói thực phẩm. Tuy nhiên, nếu
các chất hoá học độc hại lại có cả ở trong thực phẩm và cần phải tính đến sự phối
hợp của tổng các chất độc hại trong môi trường, dù là ở dạng vi lượng rất nhỏ. sử
dụng thuật ngữ "Tổng lượng khẩu phần được khảo sát" (TDS, total diet study) do
FDA's Hoa Kỳ khuyến cáo để triển khai đánh giá đúng nguy cơ hoá chất từ môi
trường đã nhiễm vào cơ thể hàng ngày và so sánh vối các sô" liệu chỉ tiêu theo giối
hạn quy định. Sẽ không có nguy cơ gây nguy hiểm cho sức khoẻ khi lượng ăn vào
trong khẩu phần thấp hơn giá trị do khuyến cáo của ADI của WHO's hoặc liều
tham khảo (RÍD) của cơ quan Bảo vệ môi trường Hoa Kỳ EPA's. Trong tất cả các
trường hợp, trẻ em thường có nguy cơ cao hơn người lớn, do đó năm 1996 Luật về
Bảo vệ Chất lượng thực phẩm Hoa Kỳ (Pood quality Protection Act) đã khuyến nghị
cơ quan EPA cần xác định sự khác nhau giữa đánh giá nguy cơ ô nhiễm của ngưòi
lớn và trẻ em. Thí dụ: xác định chỉ sô' an toàn về hoá chất bảo vệ thực vật đánh giá
414