Page 222 - Dinh Dưỡng Cận Đại
P. 222
máu do sắt ỏ mức nghiêm trọng và cần đảm bảo lượng sắt bổ sung hàng ngày từ
120-150mg/ngày. Với các bà mẹ có lượng Hb dưới 7,0g/dl chứng tỏ thiếu máu mạn
tính và cần được điều trị kịp thòi.
2.4. Cân bằng nội môi sắt của thai nhi và trẻ mới sinh
Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu xác định khả năng tạo huyết của bà mẹ
trong thời gian mang thai đã bảo vệ thai nhi không bị thiếu máu trầm trọng (9).
LưỢng hemoglobin, sắt và ferritin huyết thanh có thể giảm khi có mang hoặc cho
con bú nhưng thường không nhận thấy trạng thái thiếu sắt trong sữa của người mẹ
và trẻ mối sinh, cần tạo lượng dự trữ sắt trong cơ thể người mẹ trước khi có mang,
ăn đủ hoặc bổ sung thêm lượng sắt khoảng 30mg/ngày bắt đầu từ tháng thứ ba tới
hết thòi gian cho bú, để người mẹ luôn giữ đưỢc lượng hemoglobin trong huyêt
thanh ll,0g/dl hoặc cao hơn, ferritin huyết thanh 35 mg/dl hoặc cao hơn.
2.5. Thiếu acid folic
Thiếu acid folic (folate) thường làm tăng tỷ lệ trẻ sơ sinh không đủ cân và thiếu
máu đại hồng cầu của người mẹ (8 ). Do nhu cầu chuyên hoá folat tăng trong 3
tháng thứ hai và ba tháng cuối, cần bổ sung khoảng 200-300mcg/ngày cho các bà
mẹ có mang. Khi cần tăng dự trữ trong các tê bào mô cơ thể, cần bô sung 800 mcg
folat ngày.
2.6. Tỷ lệ bệnh và trẻ sơ sinh chết khi sinh
Do có nhiều tiến bộ trong chăm sóc bà mẹ khi mang thai và sử dụng thuốc miễn
dịch, kháng sinh trong 100 năm qua, tại Mỹ và nhiều nưốc phát triển đã giảm tỷ lệ
chết khi sinh của trẻ em từ 15% xuống còn 1 %. Tỷ lệ trẻ sinh dưới 2500g được xem
là thiếu cân chì chiếm khoảng 7% số trẻ mới sinh. Với trẻ nặng 700g khi sinh (dưới
24 tuần thai) tỷ lệ chết tới 80% hoặc cao hơn, trong khi trẻ mới sinh nặng 2000g
(trên 34 tuần mang thai) tỷ lệ chết dưối 1,5% và sự tăng cân thấp của người mẹ
trong thời gian mang thai đã ảnh hưởng đến bào thai và tử cung. Tỷ lệ trẻ sơ sinh
bị chết cao còn thấy ở các bà mẹ có lượng vitamin c huyết thanh thấp (10). Do đó
cần đảm bảo tốt nhu cầu dinh dưõng và vitamin c của các bà mẹ khi mang thai.
2.7. Tăng huyết áp thai nghén (PIH, pregnancy-induced hypertension)
Tăng huyết áp thai nghén vẫn còn là nguyên nhân có ý nghĩa tối tỷ lệ bệnh và
tử vong của cả bà mẹ và thai nhi. Tăng huyết áp thai nghén có thể dẫn tới tiền sản
giật, kinh giật và sau đó là cao huyết áp nhất thời.
Bệnh nhân có mang nếu bị tiền sản giật nặng có thể bị suy gan, thận, giảm
lượng tiểu cầu, rốì loạn đông máu và phù phổi... Tác động ảnh hưởng của thiếu và
thừa một sô" yếu tô" dinh dưỡng đốì vói cao huyết áp trong thai nghén và tiền sản
giật đã được các nhà khoa học dinh dưõng và sản khoa theo dõi trên 1 0 0 năm và
nhận thấy: thừa trọng lượng và tăng khối lượng cơ thể của bà mẹ thường có liên
quan đến sự phát triển bệnh tăng huyết áp thai nghén và tiền sản giật (9-12 lần
cao hơn) (1 2 ). Án lượng protein, lipid vừa đủ, tăng lượng acid linoleic, acid béo đa
nối đôi không bão hoà n - 6 trong khẩu phần, sẽ đề phòng tiền sản giật và cao huyết
214