Page 220 - Dinh Dưỡng Cận Đại
P. 220

cao,  tỷ lệ  tử vong và  nhiễm  độc  máu  tăng.  Với  nhóm  tuổi  có  mang  lần  đầu  khi  đã
          trên 30-35 tuổi, nhận thấy trên 40% có khuynh hướng giảm  1/3 lượng calo và thành
          phần  đạm  béo đường trong khẩu  phần,  đặc biệt không đủ  lượng các chất vi  lượng,
          khoáng và vitamin cần thiết. Tác giả đã kết luận trạng thái dinh dưõng và sức khoẻ
          của nhóm nữ đẻ ở độ tuổi 30-35 thường kém hơn tuổi 20-25,  tỷ lệ sinh con thiếu cân
          cao  hơn  và  đặc  biệt  ỏ  tuổi  35  dễ  mắc  một  sô' bệnh  mạn  tính  như  đái  tháo  đường,
          chảy máu rau thai và bong rau non... (4)

          1.  Đảm bảo dinh dưõng trong thời kỳ có mang và cho con bú

              Theo khuyến cáo của u ỷ  ban Thực phẩm và dinh dưõng thuộc Hội đồng Nghiên
          cứu  Khoa  học  Quốc  gia  Hoa  Kỳ  1989  ban  hành  lần  thứ  10,  nhu  cầu  năng  lượng,
          protein  và  18  thành  phần  dinh  dưỡng  quan  trọng  theo  thứ  tự  đối  với  nữ  chưa  có
          thai, có thai và cho con bú là 2200,  2500 và 2700 Kcalo; đặc biệt cần chú ý đảm bảo
          đủ lượng protein là 50,  60 và 65g/ngày; đủ lượng 7 châ't khoáng: calci, phospho,  sắt,
          manhê, iô't, kẽm và selen;  11 loại vitamin là vitamin A, D, K,  c, Bj,  B2, pp, folat, Bg,
          và Bi2-  Riêng đỐì vói ăn chay thuần tuý khi có thai, cần đưỢc bổ sung thêm Bj2,  sắt,
          kẽm  và  folat vối  lượng cao  hơn.  Với  bà  mẹ  sau  khi  sinh  cần  thực  hiện  cho  con  bú
          ngay và trong 3 ngày đầu các cháu thường chỉ nhận được từ mẹ khoảng  100-300ml,
          sang tuần thứ hai, ba nếu người mẹ đảm bảo ăn tốt, lượng sữa cho con bú có thể đạt
          400-600ml/ngày.  Chất lượng sữa  mẹ  trong  6   tháng đầu,  luôn có  đủ  thành  phần  và
          chất  lượng tốt  hơn  sữa  bò  và  công thức  chế biến  sữa  từ  đậu  tương,  do  có  đặc  tính
          miễn  dịch  cao  và  thành  phần  các  chất  dinh  dưỡng  phù  hỢp  vối  lứa  tuổi  của  trẻ.
          Lượng protein  1,5% dưối dạng lactalbumin, casein râ't dễ  tiêu;  3,5% lượng chất béo
          ở  dạng  giọt  rất  nhỏ  và  lượng  glucid  7%  ở  dạng  lactose.  Tất  cả  các  thành  phần  vi
          lượng khoáng và vitamin đều khá cân đối.

              Trong  6  tháng đầu nuôi con,  người  mẹ cần có khẩu phần  ăn có  thành  phần  đủ
          các chất dinh dưỡng như protein, kẽm, niacin (PP), vitamin A, E và c  cao hơn so với
          thòi kỳ có  thai  và  lượng sắt,  acid  folic  có  thể  giảm  so vối  thòi  kỳ có  thai.  Đặc  biệt
          trong  thòi  kỳ  có  thai,  nhiều  bà  mẹ  đã  tự  điều  chỉnh  nhiệt  lượng  khẩu  phần  hàng
          ngày giảm  từ 300-500 Kcal  để phòng béo  trệ và  theo khuyến cáo của  Tổ chức Y tế
          Thế giới (WHO)  năm  1973 khi có thai  3 tháng đầu tiên chỉ cần tăng  150 Kcal/ngày
          và  6  tháng tiếp  sau là  350  Kcal/ngày.  Năm  1985 WHO  có  sửa  lại  thông nhất  tăng
          trong cả  thòi kỳ có thai  là  200  Kcal/ngày,  do người  mẹ  thường giảm  hoạt  động lao
          động thể lực so với trước khi mang thai.  Năm  1991  tại một sô' bang của  Hoa  Kỳ (2)
          đã thực hiện chương trình bổ sung dinh dưỡng cho bà mẹ có thai và nuôi con (WIC)
          vối dạng khẩu phần có ba gói sẵn và giá trị cung cấp bằng 30% lượng calo của khẩu
          phần cơ bản, 65% nhu cầu protein và  100% lượng vitamin và khoáng. M ặt khác các
          nhà khoa học Mỹ đã lưu ý các bà mẹ phải luôn đề phòng sự tăng cân quá mức trong
          thời gian mang thai, đặc biệt với người béo trệ, có tỷ lệ 33-50% trong cộng đồng Hoa
          Kỳ với chỉ  số khối  lượng cơ thể  (BMI)  > 2 7 .   Ngoài  việc  phải  can  thiệp  phẫu  thuật
          khi sinh, còn dễ xẩy ra tai biến bẩm sinh thai nhi,  đái đường,  cao huyết áp,  nhiễm
          độc huyết (5).  Lượng tăng cân trong thòi gian có  mang thường phụ  thuộc vào tuổi,
          chiều cao, cân nặng và đặc điểm sinh hoạt,  hoạt động của thể lực của  nữ trước khi
          có thai từ 7-8-10,  14,  15kg hoặc  18kg (sinh đôi), và ở bà mẹ sinh con bình thường có
          trọng lượng  trên  2,5  -  3  hoặc  3,3kg.  Các  bà  mẹ  không  nên  tăng  quá  sô' lượng  1 0 -
          12kg (nếu 1 ngày ăn thừa 250 Kcal sẽ tăng khoảng  1 kg trong  1 tháng).


          212
   215   216   217   218   219   220   221   222   223   224   225