Page 127 - Dinh Dưỡng Cận Đại
P. 127

Năm  1904  đã có 50 người tình nguyện ăn thử mỗi ngày 500mg acid boric trong
      50  ngày và nhận thấy  đã  gây rốì  loạn tiêu hoá,  giảm kích thích ăn uốhg và có ảnh
      hưởng tới  sức  khoẻ.  Sau  đó  đã có  nhiều báo cáo khảo  sát và nhận thấy bor đã  gây
      nguy  hại  cho  sức  khoẻ và  vào  khoảng giữa  những năm  1950 bor  đã  được cấm  trên
      phạm vi toàn thê giới.
          Ngược  lại  đối  với  cây  trồng,  bor  được  xem  là  nguyên  tố’ cần  thiết  ngay  từ năm
      1923  nhưng thòi  gian  đó chưa  nhận thấy tác  động trên  động vật cao cấp và  người.
      Năm  1980-1981  một  sô  công  trình  khi  khảo  sát  và  thử  nghiệm  trên  gà  đã  nhận
      thấy  bor  kích  thích  sự  tăng  trưởng  và  đề  phòng  sự  biến  dạng  ỏ  chân  gà  do  thiếu
      cholecalilerol  và  lúc  đó  bor  mới  được  xem  là  có  chức  năng  cần  thiết  (essential
      lunction) trên động vật cao câ'p và cả người.  Khi ăn vào cơ thể bor trong thực phẩm
      hoặc  natri  borat,  acid  boric  đều  nhanh  chóng  hấp  thu  và  bài  tiết  phần  lớn  qua
      đường nước tiểu (trên 90%).
          Trong  cơ  thể  bor  được  phân  phôi  trong  tất  cả  các  tổ chức  mô,  xương,  răng và
      móng tay với lượng 0,05-0,6mcg/g trọng lượng tổ chức cơ thể (8). Trong huyết tương
      người bor có nồng độ  l,85-6,2nmol  (20-67ng/ml).  Khi đưỢc bổ sung thêm  3,0mg bor
      ngày,  nồng  độ  trong  huyết  tương  sẽ  tăng  thêm  28-75ng/ml.  Tại  một  số vùng  có
      lượng  bor  cao  trong  đất  và  nước,  khi  kiểm  tra  lượng bor  trong  máu  đã  nhận  thấy
      nồng độ bor tăng lên 450-659ng/ml (9).

          Căn cứ vào các số liệu thử nghiệm  khảo sát trên động vật,  các nhà khoa học về
      dinh dưỡng đã khuyến cáo nhu cầu cần thiết về bor cho người lớn từ 1  — 13mg/ngày
      (10).  PDA Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Thuốc Hoa Kỳ (11)  đã theo dõi khảo sát
      trong cộng đồng Hoa Kỳ lượng bor trong khẩu phần ăn từ l,21-l,52mg/ngày.
          Thực phẩm nhiều bor là các loại rau ăn lá,  quả không chua, quả có vỏ cứng, đậu
      các loại.  Các loại rưỢu vang và bia cũng chứa nhiều bor, thịt và cá có ít bor.

      3.  Fluor(F)

          Eluor lần đầu tiên được sự chú ý về ý nghĩa dinh dưõng bắt đầu từ năm  1930 do
      gây các vết châ’m lô’m  đô’m  nâu ở răng.  Thời gian đó đã có sự ghi nhận số mắc bệnh
      sâu ràng thấp tại khu vực có người bị vết chấm nâu ở răng.

          Và từ năm  1950 khi nưốc được fluor hoá đã cải thiện sức khoẻ của cộng đồng và
      làm giảm nguy cơ loãng xương (12). Messer HH năm  1984 đã nhận thấy fluor có tác
      động  tới  sự  tạo  máu  (hematopoiesis)  và  sinh  sản  (íertility)  trên  động vật.  Khi  thử
      nghiệm  khẩu  phần  có  lượng  fluor  thấp  trên  khẩu  phần  ăn  của  chuột  0,26nmol
      (5ng/g) nhận thấy chuột bị thiếu máu và không sinh sản, khi đốì chiếu với nhóm sử
      dụng 2,6 micromol (50mcg) F/ml nước uống (12). Nhưng nếu trong khẩu phần ăn có
      đủ  lượng  sắt  đã  không  nhận  thấ^y  tác  động  thiếu  máu  hoặc  ngừng  sinh  sản
      (inlertility).  Khi  trong  nưóc  uô’ng  có  lượng  fluor  cao  O.lmmol  (2mg  fluor/kg)  sẽ  bị
      chứng nhiễm  íluor  (íluorosis) và  răng có  vết  đôm  nâu.  Vối  người  khi  sử  dụng nước
      có  lượng íluor cao  10-25mg/ngày  trong  7-20  năm  đã  nhận thấy xương bị yếu và  dễ
      gẫy do nhiễm fluor (crippling skeletal íluorosis).  Dấu hiệu bị ngộ độc fluor cấp tính
      5mg/kg  TLCT  thường  là  buồn  nôn,  nôn,  đau  bụng,  chảy  nước  bọt,  chảy  nưốc  mắt,
      khó thở, thiểu năng tim, co giật, rôl loạn cảm giác tê liệt và hôn mê (13).


                                                                                       119
   122   123   124   125   126   127   128   129   130   131   132