Page 121 - Dinh Dưỡng Cận Đại
P. 121

hợp  lại  có  liên  quan  đến  sự  giảm  thymidin  trong  kết  hỢp  với  DNA,  làm  giảm
      polyribosom  và  thay  đổi  tác  nhân  kẽm  trong cơ thể,  tác  động tối việc  điều  hoà các
      gen  sao chép  (gene  transcription).  Sự hấp  thụ  kẽm  thấp trong phát triển bào  thai
      đã  tác  động  đến  sự  phát  triển  của  não  và  các  tổ  chức  mô  khác,  nhất  là  gây  tốn
      thương đến hệ thống nơron thần kinh (3).

          Keen  và  c s   đã  phát  hiện  thiếu  kẽm  có  thể  gây  tác  động  đến  sinh  quái  thai
      (teratogenic),  giảm  sinh  tổng  hỢp  protein  và  acid  nucleic,  giảm  sự  trùng  hỢp
      (polyme  hoá)  các  ống  tiểu  quản  (tubulin  polymerization),  tác  động  oxy  hoá,  hoạt
      động của  gen  (gene expression)  và biến đổi chu kỳ tế bào,  điều hoà hình thái phân
      tử...  Kẽm còn tác động tối sự chậm phát triển tăng trưởng, làm chậm trễ phát triển
      giới tính và bất lực, liệt dương, giảm năng tuyến sinh dục (hypogonadism) và ít tinh
      dịch (hypospermia), rụng lông tóc, viêm lưỡi và giảm vị giác...

          Kẽm  là  chất  phân  bố  không  đều  (heterogenously)  trong  não  và  thường  tập
      trung tại các nhóm  dây thần kinh.  Kẽm có nhiều trong chất xám hơn là chất trắng.
      Có  3  dạng tích  luỹ  kẽm  trong cơ thể:  kẽm  tự  do  (free  zinc),  kẽm  tích luỹ (vesicular
      zinc) và  protein liên kết kẽm  (protein bound zinc)  (3).  Kẽm khu trú tại bán cầu não
      thể hiện  rõ  nhất tại các  sỢi  rêu  (mossy fiber projections)  chạy từ khu có tế bào hạt
      hải mã cho tới nhóm dây thần kinh hình tháp CA3 (pyramidal neurons). Một sô" sỢi
      dây  thần  kinh  khác  cũng  có  chứa  thành  phần  kẽm  cao  nằm  ở  đường  vỏ  não
      (cerebrocortical  paths).  Kẽm  cũng có  ở  trong chất  nhuộm  màu  (staining),  tại vùng
      dưới  đồi thị  (hypothalmus), cầu  não  (pons) và tiểu não (cerebellum).  Kẽm trong các
      bó dây thần kinh  được sử dụng trong các túi xi-náp  (tiếp hỢp -  synaptic vesicles) và
      có  ở  nồng  độ  khá  cao  300  micro  M.  Theo  dõi  tại  hệ  thống  sỢi  rêu  (mossy  fiber
      System)  của  vùng  hải  mã  nhận  thây  râ"t  rõ,  kẽm  đưỢc  giải  phóng  từ các  dây  thần
      kinh  và  túi  xi-náp.  Đó  là  hoạt  tính  vận  động  quan  trọng  của  kẽm  vào  các  bó  dây
      thần kinh. Một thử nghiệm khác trong điều kiện phân bổ kẽm bình thường đã nhận
      thây có thể có  sự thay đổi khi thiếu  magne  (Mg),  mặc dù không có các dâ"u hiệu về
      thay .đổi tê bào của não.

          Vai  trò của kẽm  trong việc  truyền tín hiệu  thần kinh có ý nghĩa  quan trọng do
      sự có  mặt của kim  loại trong hệ thông thần kinh,  hoạt tính của chúng, tác động bởi
      các  tê  bào  thần  kinh,  dự  trữ  trong  các  túi  xi-nap  và  thải  trừ  do  sự  khử  cực
      (depolarization) khi kích thích Ca^^      stimulation)  (3).  Các tế  bào thần kinh này
      hiện  được xếp vào nhóm  đặc biệt của tế bào thần kinh bài tiết glutam at (glutamate
      -  secreting  neurons)  và  đáp  ứng  tới  việc  kích  thích  Ca^""  để  truyền  tín  hiệu  thần
      kinh.

          Kẽm có phổ biến trong thực phẩm, có lượng thấp 0,02mg/100g trong lòng trắng
      trứng;  Img/lOOg trong thịt gà và 75mg/100g hầu (oyster).  Các loại nhuyễn thể, thịt
      gia  súc và  hạt ngũ cô"c  đều  có lượng kẽm  cao.  Lượng kẽm  tập  trung ở phôi hạt ngũ
      cô’c  và  bị  giảm  80%  khi  xay  xát.  Nhu  cầu  về kẽm  đã  được  u ỷ  ban  Dinh  dưỡng và
      Thực phẩm  Hoa  Kỳ khuyến cáo  1989  (RDA)  và Tổ chức Y tê Thế giới  1996  (WHO)
      được giới thiệu tại bảng 3.30 (4,5).




                                                                                       113
   116   117   118   119   120   121   122   123   124   125   126