Page 102 - Dinh Dưỡng Cận Đại
P. 102

6. THÁNH PHẨN NUỨC, MỤÔI Na, Cl, K, CHẤT ĐIỆN PHÂN
                                       VA CÂN BẰNG KIÊM TOAN








            1.  Điều  hoà Ổn  định thể tích trong và ngoài tế  bào
               Chất  khoáng giữ vai  trò  hết  sức quan trọng trong cơ thể,  đặc biệt là  khả  năng
           cân  bằng  kiềm  toan,  duy  trì  tính  ổn  định  trong thành  phần  các  dịch  cơ  thể  (body
           Auids) và điều hoà áp lực thẩm thấu.
               Dịch  cơ  thể  là  dung  dịch  chứa  chất  điện  phân bao  gồm  các  ngăn  trong tế  bào,
           nội tê bào và ngoại tê bào (intra and extracellular compartments). Dịch trong tế  bào
           (ICF  intracellular  fluid)  không  phải  là  một  ngăn  rộng  đơn  độc  (single  large
           compartment).  Mỗi  một  tế bào  có  một  khoảng  riêng  biệt  (separate  environment)
           thông  tin  truyền  đạt  vối  tế bào  khác  qua  dịch  giữa  tế  bào  (interstitial  fluid)  và
           huyêt tương.  Có thể kết luận các tê bào có các mô khác nhau là do nồng độ và thành
           phần chất hoà tan trong dịch cơ thể.
               Không tính  tối bản chất của chất hoà tan và  điện tích,  sự cân bằng thẩm  thấu
           (osmotic equilibrium) được giữ sao cho mỗi hạt (thành phần nhỏ nhất của chất hoà
           tan) lưu thông tới toàn bộ cơ thể cùng với các phân tử nưóc. Khi mà các màng tế  bào
           đều rất dễ dàng cho nước thấm qua, nồng độ dịch -cơ thể sẽ hoàn toàn giốhg nhau ở
           tất  cả  các  bộ  phận  tổ  chức  cơ  thể.  Điều  hoà  chức  phận  chuyển  hoá  bình  thường
           trong cơ thể, cần phải giữ được sự ổn định tốt nhất (optimal) các ion trong dịch nội
           bào cơ thể, vì tất cả các hoạt động chuyển hoá đều tập trung ỏ đó (3).
               Dịch  ngoài tế bào  (ECF,  extracellular fluid)  có chức năng chính  được  xem  như
            ống dẫn (conduit) giữa các tế bào và giữa các tổ chức cơ thể,  đảm bảo luôn giữ được
            khối lượng thể tích dịch ngoài tế bào tốt nhất, đặc biệt là thể tích huyết tương được
            cung cấp  đủ oxy cho quá trình chuyển hoá lưu thông dịch cơ thể.  Nếu thể tích dịch
            ngoài  tê  bào  giảm  sẽ  dẫn  đến  sự  rối  loạn  và  suy  yếu  cơ  quan  truyền  dịch  (organ
            períusion)  và  ngược  lại  th ể ,tích  dịch  ngoài  tế bào  cao  sẽ  dẫn  đến  sự  xung  huyết
            mạch  (vascular congestion) và  gây phù phổi.  Để giữ bình thường khối lượng huyết
            tương,  trước hết cần  phải  giữ ổn  định cân bằng dịch  giữa  tế  bào  (interstitial fluid)
            và thể tích dịch ngoài tế bào.

                Lượng nước trong cơ thể thường phụ thuộc vào lượng mỡ và được tính theo công thức:

                Tổng lượng nước cơ thể (L) = Trọng lượng cơ thể tính theo Ib (pound=450g): 4
                Với người béo,  lượng nưốc trừ bớt  10% và người rất béo trừ 20%, còn người gầy
            cộng thêm  10%. Cùng một trọng lượng, khối lượng nước của nữ ít hơn  10%.

                Bảng  3.24  thể hiện thể tích  dịch  trong và  ngoài  tế  bào.  Thể tích  dịch  ngoài tế
            bào  được  chia  thành  3  phần  (ửactions).  Thể tích  dịch  giữa  tế bào  chiếm  28%  tổng



            98
   97   98   99   100   101   102   103   104   105   106   107