Page 110 - Chính Sách Khen Thưởng
P. 110
Những đóng góp của CNLĐ miền Nam trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã
đưa phong trào đấu tranh lên đĩnh cao mới. Mặc dù còn có những hạn chê, sọng CNLĐ miên Nam đã
vượt qua sự khủng bố ác liệt của kẻ thù; duy trì và phát triển phong trào đẩu tranh, góp phần cùng
nhân dân miền Nam đánh thắng chiến lược “ chiến tranh cục bộ” của đé quốc Mĩ. Khi đế quốc Mĩ buộc
phải đàm phán với Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa và đại diện Mặt trận Dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam, LHCĐ giải phóng miền Nam Việt Nam đã tích cực kêu gọi, vận động công nhân
và lao động trên thế giới phong trào, ủng hộ “giải pháp 10 điểm” của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền
Nam Việt Nam, chống lại thái độ ngoan cố của đoàn đại biểu Mĩ tại hội nghị Pa Ri. Sau thất bại của
chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, dưới sự chỉ đạo của Công đoàn giải phóng, phong trào đấu
tranh của công nhân và lao động miền Nam diễn ra sôi nổi rầm rộ đòi Mỹ phải tôn trọng và thi hành
hiệp định Pari, kết hợp với đấu tranh đòi cải thiện đời sống, chống sa thải, đòi tự do dân chủ. Từ các
cuộc đấu tranh này, nhiều tổ chức của công nhân được thành lập như “ủy ban duy trì quyền sống”, “ủy
ban bảo vệ quyền lợi lao động”, “Mặt trận chống sa thải công nhân”... Đây là một hìnl'1 thức tập hợp
rộng rãi công nhân, lao động đoàn kết đấu tranh đe bảo vệ quyền lợi. Phong trào công nhân ở các đô thị
đã có thêm nhiều đội tự vệ xung kích, tự vệ thành, đội thông tin, chuẩn bị sẵn sàng tham gia phối hợp
đấu tranh vũ trang trong thành phố.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta mùa xuân năm 1975 đã giải phóng hoàn toàn
miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Trong thắng lợi đó có sự hỗ trự và phối hợp nhịp nhàng của lực lượng
công nhân ở các đô thị miền Nam. Liên hiệp công đoàn giải phóng đã hướng dẫn cho công nhân chủ
động nổi dậy bảo vệ nhà máy, xí nghiệp tiếp quản các cơ sở kho tàng, bảo vệ và tiếp tục duy trì hoạt
động của các nhà máy điện, máy nước, các phương tiện giao thông và thông tin liên hc, góp phần ổn
đnh đời sống nhân dân ngay sau ngày giải phóng.
Đáp ứng yêu cầu của phong trào công nhân, công đoàn trong cả nước, Đại hội lần thứ IV Công
đoàn Việt Nam đã khai mạc tại Hà Nội vào ngày 8-5-1978. Tham dự đại hội có 926 đại biểu, thay
mặt cho trên 3 triệu đoàn viên công đoàn, công nhân, viên chức trong cả nước. Đại hội đã xác định
những nhiệm vụ của giai cấp công nhân và phong trào công đoàn là: vận động tập hợp, đoàn kết
CNLĐ, phát huy truyền thống cách mạng, hăng hái thi đua lao động sản xuất thực hiện thành công kế
hoạch 5 năm lần thứ hai. Đại hội bầu đồng chí Nguyễn Văn Linh, ủy viên Bộ chính trị Ban chấp hành
TW Đảng làm Chủ tịch Ban Chấp hành Tổng Công đoàn Việt Nam. Đồng chí Nguyễn Đức Thuận làm
Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký.
Sau Đại hội, Phong trào thi đua lao động xã hội chủ nghĩa với 5 nội dung cụ thể trong công nhân,
viên chức đã tạo được bước chuyển biến tích cực, nhiều điển hình tiên tiến và nhân tố mới trong sản
xuất đã hình thành. Kết quả của phonạ trào thi đua đã góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, tạo dựng cơ sở vật Chat- kỹ thuật ban đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hộiT
Trong 5 năm (1976-1980), Công đoàn các cấp, nhất là công đoàn cơ sở, đã thường xuyên quan
tâm và có nhiều cố gắng chăm lo đời sống công nhân, viên chức nhưng do tình hình khủng hoảng
kinh tế xã hội kéo dài, giá cả tăng nhanh, giá trị lương thực tế giảm nên đời sống công nhân, vien chức
gặp nhiều khó khăn, một bộ phận người lao động trong các nhà máy, xí nghiệp, nông - lâm trường mất
việc làm. Trorig tình hình đo, công đoàn vừa đaỵ mạnh công tác tuyên truyền giẩó dục, ổn định tư
tưởng trong công nhân, viên chức, tăng cường kiếm tra giám sát nhằrn đảm bảo thực hiện đầy đủ, kịp
thời các chế độ, chính sách Nhà nước đã ban hành; kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực,
quan liêu, cửa quyền, tham ô, bớt xén tiêu chuẩn của người lao động: phát động phong trào làm chủ xí
nghiệp, khai thác mọi tiềm năng thúc đẩy sản xuất phát triển.
Công đoàn Việt Nam đã đẩy mạnh quan hệ với công đoàn các nước, tranh thủ được sự ủng hộ
giúp đỡ về vật chất và tinh thần của lao động và công đoàn quốc tế đối sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, góp phần tăng cường tình đoàn kết giữa công nhân thế giới với công nhân Việt Nam.
Với những đóng góp to lớn của Công đoàn Việt Nam đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của đất
nước, ngày 18-12-1980, Quốc hội khóa VI đã thông qua Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trong đó khẳng định ‘Tổng Công đoàn Việt Nam là tổ chức quần chúng rộng lớn nhất
của giai cấp công nhân Việt Nam, là trường học chủ nghĩa cộng sản, trường học quản lý kinh tế, quản
lý nha nước”
Tóm lại, sau ngày đất nước thống nhất, giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn Việt Nam phát
triển nhanh, mạnh. Cùng với nhân dân lao động cả nước giai cấp công nhân đã đoàn kết, đẩy mạnh
112