Page 109 - Chính Sách Khen Thưởng
P. 109
Từ năm 1969 đến năm 1971, CNVC đã có nhiều đóng góp to lớn vào công cuộc khôi phục và
phát triển kinh tế, ổn định sản xuất. CNVC ngành giao thông vận tải đã tu sửa, mở mới 233.000km
đường, cầu phà, bến cảng, bến sông vận chuyển trên 111.000 tấn hàng hóa và vũ khí vào chiên
trường. Tổng cục Hậu cần, Quân đội nhân dân Việt Nam đã tăng trên 10.000 cán bộ, chiên sĩ phục vụ
các tuyến đường giao thông. Các ngành Nông nghiệp, Thương nghiệp, Bưu điện, Y tê, Giáo dục... đều
đạt được những thành tích quan trọng trong phong trào thi đua chống Mĩ, cứu nước.
Tổng Công đoàn Việt Nam chủ động và kịp thời đề ra mục tiêu, nội dụng và biện pháp thực hiện
nhiệm vụ trọng tâm là đẩy mạnh sản xuất, chăm lo giải quyết những vấiỊ đề cấp thiết về đời sống, sẵn
sàng chiến đấu. Tháng 4 năm 1972, đế quốc Mỹ lại đánh phá miền Bãc với quy mô ác liệt hơn, tàn
bạo hơn. Còng đoàn vận động công nhân, bảo đảm giờ công, r gày công giữ vững và đẩy mạnh sản
xuất, bám chỉ tiêu, định mức lao động, giữ vững nội quy kỷ luật lao động và tham gia quản lý sản xuât.
Tổng Công đoàn, các Liên hiệp Công đoàn và Công đoàn ngành phân công cán bộ về cơ sở, giúp
công đoàn cơ sở chuyển hướng hoạt động và xây dựng tổ chức. Hàng vạn CNVC đã tình nguyện ra
mặt trận. Các binh đoàn thợ mỏ, binh đọàn công nhân gang thép đã ra đời trong những năm chiên
tranh chống Mĩ và đã lập được nhiều chiến công oanh liệt. Nhiều công đoàn cơ sở đã tổ chức phong
trào “ Tiếng hát át tiếng bom” với những buổi bieu diễn văn nghệ quần chúng được tô chức với hình
thức đa dạng, phong phú.
Từ ngày 11 đến 14-2-1974, Đại hội lần thứ III Công đoàn Việt Nam đã họp tại Hà Nội. Đại hội
xác định phương hướng, nhiệm vụ của công tác công đoàn và phong trào công nhân trong giại đoạn
mới. Đồng chí Tôn Đức Thắng được bầu làm Chủ tịch danh dự Tổng Công đoàn Việt Nam. Đông chí
Hoàng Quốc Việt được bầu lại làm Chủ tịch Tổng Công đoàn Việt Nam. Tổng thư ký là đông chí
Nguyễn Đức Thuận.
Thực hiện Nghị quyết đại hội, công nhân lao động miền Bắc đã hăng hái thi đua lao động, sản
xuất thực hành tiết kiệm để khôi phục kinh tế miền Bắc, chi viện đắc lực cho miền Nam, phong trào thi
đua lao động, sản xuất, thực hành tiết kiệm đã thu hút 70% CNVC và 75% số tổ, đội sản xuất tham
gia; có 2.018 cơ sờ, trong đó 1.580 cơ sở sản xuất kinh doanh đăng ký hoàn thành vượt mức kế
hoạch được giao. Đến cuối 1973, đã có 919 cơ sở hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước giao.
Các phong trào thi đua phục vụ nông nghiệp có tiến bộ. Nhiều địa phương, ngành như Hà Tây,
Thanh Hóa, Vĩnh Phúc, Nam Định, Thái Bình, Công nghiệp năng lượng, cơ khí, hóa chất... đã có
nhiều chương trình thi đua phục vụ sản xuất nông nghiệp, tăng năng suất cây trồng và vật nuôi. Các
Viện nghiên cứu nông nghiệp đã cử cán bộ kỹ thuật về các hợp tác xã nông nghiệp để hướng dẫn bà
con nông dân kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi...
Những thành tựu đạt được trong khôi phục kinh tế, đẩy mạnh sản xuất và tiết kiệm những năm
1973-1975 ờ miền Bắc, đã tạo hậu thuẫn cho cuộc tổng tiến công nổi dậy mùa xuân 1975, giải phóng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc, tạo tiền đề cho cả nước đi lên CNXH.
ở miền Nam, ngày 27 tháng 4 năm 1961, Hội Lao động giải phóng ra đời, đến ngày 1 tháng 5
năm 1965 đổi tên thành Liên hiệp Công đoàn giải phóng miền Nam Việt Nam, đã vận động, tập hợp
người lao động đấu tranh chống Mỹ- Ngụy trên các mặt trận, bằng nhiều hình thức, biện pháp. Trong 2
năm đầu chống chiến lược “Chiến tranh đặc biệf (1961-1962), CNLĐ miền Nam đã tiến hành trên
8.900 cuộc đấu tranh, với hơn 74 vạn lượt người tham gia. Tiêu biểu là cuộc đình công chiếm xưởng
của hơn 400 công nhân hãng dầu Xtanvac ngày 4/9/1961. Cuộc đình công kéo dài 3 tháng, làm tê liệt
100 trạm bán dầu. Cuộc đấu tranh này đã được hàng chục nghìn công nhân của các Đồn điền Cao su
ở Biên Hòa, Thủ Dầu Một và trên 100 nghiệp đoàn công nhân ờ Sài Gòn- Chợ Lớn ủng hộ. Giới chủ
phải chấp nhận yêu sách của công nhân tăng lương thêm 6%. Tháng 10/1961, hơn 7000 công nhân
Dầu Tiếng đã đình công đòi tăng lương. Cuộc đấu tranh đã lôi kéo hàng nghìn người trong các đồn
điền và thị trấn cùng tham gia.
Năm 1963, chỉ riêng ờ khu vực Sài Gòn-Chợ Lớn đã có 505 cuộc đấu tranh, thu hút trên 20 vạn
lượt người tham gia. Ngày 21,22/9/1964, hơn 20 vạn công nhân, lao động Sài Gòn đã biểu tình, bãi
công ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân ngành dệt, đòi chấm dứt đàn áp, đòi tự do, dân chủ. Cuộc
tổng bãi công đã làm tê liệt nhiều hoạt động trong thành phố Sài Gòn. Cuộc đấu tranh ở các đô thị còn
có sự phối hợp liên kết với công nhân đồn điền và với nông dân các vùng lân cận và với lực lượng vũ
trang tấn công các công sờ và căn cứ quân sự trong các thanh phố.
111