Page 104 - Chính Sách Khen Thưởng
P. 104
tiên của công nhân nhà máy xe lửa Trường Thi, nhà máy Cưa, nhà máy Diêm Bến Thủy (thành phố
Vinh - Nghệ An) đúng vào ngày 1/5/1930, tiến tới thành lập Xô việt công nông ở hai tỉnh Nghệ An, Hà
Tĩnh. Trong thời gian này, Công hội đỏ đã cử hơn 300 cán bộ về nông thôn phối hợp tranh đấu, xây
dựng khối liên minh công nông trong chiến đấu.
Trong năm 1930, đã có 98 cuộc đấu tranh với trên 6 vạn lượt thợ thuyền tham gia. ở Nhà máy
Sợi Nam Định số hội viên đã tăng từ 400 lên 1.000 người, ở Vinh - Bến Thủy đã có 15 tổ Công hội đỏ
với 125 hội viên, ở khu vực Sài Gòn - Chợ Lớn, đã có 12 cơ sở Công hội đỏ với 700 hội viên . Phong
trào đấu tranh của công nhân và sự phát triển của tổ chức Công Hội đỏ Việt Nam, đã được Đại hội V
Quốc tế Công hội đỏ tại Matxcơva ngày 15/8/1930 biểu dương, khích lệ.
Tháng 10/1930 Đảng cộng sản Đông Dương triệu tập Hội nghị Trung ương lần thứ nhất, thông
qua Luận cương chính trị của Đảng. Ngày 20/1/1931, Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương mở
hội nghị công vận Đông Dương tại Sài Gòn do đồng chí Trần Phú chủ trì. Hội nghị xác định công tác
vận động công nhân là nhiệm vụ trung tâm hàng đầu của toàn Đảng đề ra quy tắc tổ chức Công hội
theo ngành sản nghiệp, từng phân bộ tĩnh, Liên hiệp Công hội các tỉnh, từng xứ đến Tổng Công hội
Đông Dương. Hội nghị bầu Ban Công vận Trung ương do đồng chí Trần Phú làm trưởng ban.
Từ đầu năm 1931, thực dân Pháp tăng cường đàn áp phong trào đấu tranh của công nhân Việt
Nam. Cuộc khủng bố trắng của thực dân Pháp đã bắt giam, bắn chết hàng vạn chiến sĩ cộng sản và
quần chúng cách mạng tham gia phong trào 1930-1931 và Xô Viết Nghệ Tĩnh. Đến cuối năm 1931,
hầu hết số cán bộ Đảng và Công hội đỏ đều bị địch bắt, khiến cho mối liên lạc giữa Đảng và quần
chúng, giữa Công hội đỏ và phong trào công nhân tưởng như bị đứt đoạn. Thêm vào đó, nạn khủng
hoảng kinh tế vẫn trầm trọng và kéo dài làm cho 8 vạn người thất nghiệp, tiền lương của những công
nhân còn có việc làm không ngừng bị bớt xén. Chủ tư bản dùng mọi mánh khóe để bóc lột công nhân.
Nhờ sự nỗ lực, kiên cường của Đảng và nhiệt tình cách mạng của giai cấp công nhân, từ năm
1932 phong trào cách mạng trọng cả nước đã bắt đầu được phục hồi. Năm 1932, cơ quan thanh tra
lao động Pháp đã phải giải quyết 230 vụ đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm, chống khủng bố của
công nhân. Năm 1933 có 244 vụ. Riêng ở Bắc Kì, từ năm 1931 đến năm 1935 có 551 vụ. Các cuộc
đấu tranh đã thu hút cộng nhân của nhiều ngành tham gia, trong đó đáng chú ý là các cuộc đấu tranh
của công nhân đồn điền trồng cây công nghiệp. Từ tháng 6/1932 đến tháng Giêng năm 1933 có 5
cuộc đấu tranh của công nhân đồn điền thuộc các tỉnh Biên Hòa, Hà Tiên, Pleiku, Gia Định, Quảng
Nam... Từ giữa năm 1934, phong trào công nhân đã khôi phục trở lại, mở đầu bằng cao trào bãi công
của công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn. Hội nghị Trung ương tháng 6 năm 1934 của Đảng và Đại hội Đảng
lần thứ nhất (tháng 3 năm 1935) đã đề ra nhiệm vụ của Công hội đỏ là phát triển và củng cố các Công
hội, chủ trương đưa cán bộ công hội xâm nhập vào nhà máy, sản nghiệp...
2. Thời 1^ 193 6-1939
Từ năm 1936 đến năm 1939 phong trào công nhân yà công đoàn Việt Nam có những thay đổi
lớn. Năm 1935, phong trào cách mạng thế giới phải đối đầu với chủ nqhĩa phát xít, hình thức chuyên
chính cực đoan nhất của chủ nghĩa đế quốc và nguy cơ chiến tranh the giới đã đến gần. Tình hình đó
đòi hỏi phải có sự thay đổi chỉ đạo chiến lược của Quốc tế Cộng sản đoi với phong trào cộng sản và
công nhân thế giới, ở Việt Nam giai cấp công nhân đã lập ra các tổ chức ái hữu (1936-1937) chủ yếu
theo nghề nghiệp, làm bước trung gian tiến tới đòi tự do nghiệp đoàn.
Tổ chức Công hội đỏ đổi tên thành Hội ái hữu, chuyển sang thời kỳ hoạt động bán công khai.
Mục tiêụ của phong trào công nhân thời kỳ này là đòi tự do nghiệp đoàn, đòi thực hiện dân sinh dân
chủ, nhằm tập hợp quần chúng rộng rãi, Hội ái hữu chủ trương thu nhận mọi công nhân lao động miễn
là họ chấp nhận Điều lệ hoạt động nghiệp đoàn. Nhiều hình thức tổ chức có tính linh hoạt như: Hội ái
hữu, Hội tương tế, Hội nghề nghiệp... được thành lập.
Nhờ tổ chức linh hoạt, thích hợp, công khai và bán công khai, phong trào công nhân phát triển
mạnh. Từ năm 1936 đến năm 1939, có hàng vạn cuộc đấu tranh của công nhân buộc thực dân Pháp
phải chấp nhận một số yêu cầu: tăng lương, giảm giờ làm, tự do hoạt động nghiệp đoàn, tự do hội
họp, chống chủ sa thải và đánh đập công nhân. Đến năm 1938, cả nước có 12 vạn đoàn viên nghiệp
đoàn, chủ yếu ờ Bắc kì và Nam kì. Một sổ nơi có phong trào công nhân phát triển mạnh như: Hòn Gai,
Nam Định, Hà Nội, Vinh - Bến Thủy, Cao su Phú Riềng...
Tóm lại, tổ chức Hội ái hữu thời kỳ 1936-1939, đã trực tiếp dẫn dắt phong trào đấu tranh của giai
106