Page 102 - Chính Sách Khen Thưởng
P. 102

22 vạn người, trong đó cỏ 5,3 vạn thợ mỏ, 8,6 vạn công nhân các ngành công thương  nghiệp,  8,1  vạn
       công  nhân các đồn điền trồng  cây công  nghiệp.  Đỏ  là chưa kể đến  những  ngưò'i  làm  ờ xí  nghiệp thủ
       công lớn, nhỏ, thợ may, thợ cạo, thợ giặt, bồi bếp, khuân vác ở hải cảng...
           Như vậy, từ sự đầu tư vào công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân  Pháp dẫn tới sự ra đời tất
       yếu khách quan của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam.  Và đó cũng  là điều  kiện  cơ
       bản làm xuất hiện một giai cấp mới - giai cấp công nhân Việt Nam.
           Đa số công nhân  nước ta có nguồn gốc xuất thân từ nông dân. Trong số 27.505 công  nhân,  đồn
       điền, thợ mỏ ở 15 tỉnh Bắc Kỳ vào năm  1929 thì có tới 24.658 người là nông dân (chiếm 84,6%).  Sớm
       tiếp thu truyền thống anh  dũng  bất khuất,  chống giặc ngoại xâm của dân tộc,  giai  cấp công  nhân Việt
       Nam đã hăng hái đấu tranh với tư bản Pháp. Tuy nhiên,  phần  lớn các cuộc đấu tranh còn tản mạn và
       tự phát, thiếu tổ chức lãnh đạo và chỉ tập trung  vào đòi quyền  lợi  kinh tế,  quyền  sổng trước mắt,  với
       các hình thức như:  bỏ việc về quê,  lãn  công,  đòi tăng  lương,  chống  đánh  đập.  Tiêu  biểu  là  cuộc đấu
       tranh của công  nhân  đường  sắt Hà Nội - Lạng  Sơn,  công  nhân  mỏ thiếc -  kẽm  Cao  Bằng,  gạch Yên
       Thế,  dệt sợi  Nam Định.  Song  cũng  có một số cuộc đấu tranh của công  nhân  cỏ tinh thần dân tộc cao
       như phong trào đấu tranh  ủng  hộ nghĩa quân Yên Thế, tham gia biểu tình đòi thả  nhà yêu nước Phan
       Bôi  Châu,  phong trào để tang  nhà yêu nước Phan  Chu Trinh...  . trong  cao trào yêu  nước những  năm
       1925-1926 ơ s ẵ  Gò^^     ^
           Từ khi chủ nghĩa Mác-Lênin được truyền bá vào Việt Nam,  số lượng các cuộc bãi công ngày một
       tăng và quan trọng hơn là bãi công có tính chất chính trị, có tổ chức lãnh đạo.  Nếu như năm  1927 có 7
       cuộc bãi  công thì  năm  1929  có đến  24 cuộc,  năm  1930  là 30  cuộc với  số  lượng  người tham  gia  lên
       đến ngót 32.000 người.  Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công  nhân và  phong trào yêu nước từ
       năm  1925 đến năm  1929 là một điều kiện quyết định sự ra đời các tổ chức Cộng sản và Công  hội Đỏ
       ờ Việt Nam, đặc biệt là sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm  1930.
            2. Các tổ chức Cõng hội sơ  khai ở  Việt Nam trước năm  1925
            Năm  1921, đồng chí Tôn Đức Thắng bắt tay vào cuộc vận động thành lập Công  hội  Ba Son.  Mục
       đích của hội là: Đấu tranh bênh vực quyền lợi của công nhân, đấu tranh chống đế quốc tư bản.  Công
       hội đỏ đã trở thành  linh  hồn của  phong trào bãi công  của công  nhân  Ba Son,  Sài  Gòn - Chợ Lớn vào
       những  năm  1920  -  1925,  mà  điển  hình  là  cuộc  bãi  công  của  công  nhân  Ba  Son  tháng  8  năm  1925.
       Cuộc bãi công này ủng hộ cuộc đấu tranh của công nhân Thượng Hải, Trung Quốc. Vì thế đây là cuộc
       đấu tranh đầu tiên của công nhân ta mang tính chính trị quốc tế.
            Ngoài tổ chức Công hội Đỏ do đồng chí Tôn Đức Thắng sáng lập, còn có Liên đoàn công nhân lái
       tàu trên các bến Viễn Đông  (gọi tắt là  Hải viên công  hội). Tôn chỉ,  mục đích của hội  là “Mưu  lợi  ích và
       giúp đỡ anh em  lao động  Hải viên,  đòi những điều  kiện cần thiết cho anh em  lao động  Hải viên,  đoàn
       kết toàn thể  anh  chị em  lao động”.  Hải  viên  công  hội  đã thu  hút  phần  lớn  các thủy thủ Việt  Nam  làm
       trên những con tàu chạy từ Pháp qua Việt Nam, Trung Quốc và một số nước khác.
            Khoảng  năm  1922,  trên  tàu  biển  của  hãng  hàng  hải  Pháp  có  hàng  nghìn  thủy thủ  Việt  Nam  tổ
       chức  Hội  ái  hữu  để tương  trợ giúp đỡ  nhau  khi  xa  quê  hương.  Thủy thủ  người  Pháp  và  người Việt
       Nam trên  các con tàu  chạy từ  Pháp đến Việt  Nam  đã  liên  lạc với  một  bộ  phận  công  nhân  Việt  Nam
       trên đất liền Sài Gòn - Chợ Lớn. Trong cuộc mít tinh chào mừng thắng lợi đấu tranh của thủy thủ trên 8
       tàu buôn  Pháp đậu tại Cảng  Sài Gòn năm  1922 đã  nêu khẩu  hiệu “Công  đoàn  muôn  năm”.  Sài  Gòn -
       Chợ Lớn đã hường ứng khẩu hiệu đỏ và cùng nhau bí mật tổ chức ra Hội tương tế, ái hữu của mình.
            Khác với công đoàn ờ các nước dân chủ tư sản, các tổ chức công đoàn sơ khai ở Việt Nam ngay
       từ khi ra đời đã phải hoạt động bí mật.  Song,  bằng nhiều biện pháp khôn khéo các tổ chức này đã gắn
       bó mật thiết với công  nhân,  lao động góp phần  rút ngắn giai đoạn đấu tranh  “tự phát”  của  phong trào
       công nhân Việt Nam.
            3.  Thành lập Công hội đỏ Bắc kỳ - tổ chức tiền thân của Công đoàn  VN
            Quá  trình  hình  thành  phát  triển  của  Công  Hội  đỏ  Bắc  kỳ  gắn  liền  với  hoạt  động  của  lãnh  tụ
       Nguyễn ái Quốc trong những thập niên đầu của thế kỷ XX,  Người đã đặt nền mỏng,  cơ sở lý luận cho
       sự ra đời của các tổ chức quần chúng của giai cấp công nhân Việt Nam. Từ năm  1914 đến năm  1917,
       Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Luân Đôn tham gia công đoàn hải ngoại Anh;  cuối năm  1917,  Người trở
       về  Pháp,  tham  gia  Đảng  xã  hội  Pháp  và  là  đoàn  viên  của  công  đoàn  Kim  khí  Pháp;  năm  1919  đã
       hướng dẫn cho Nguyễn Tạo (Việt kiều tại Pháp) thành lập công đoàn thủy thủ Việt Nam tại Mác-xây.


       104
   97   98   99   100   101   102   103   104   105   106   107