Page 101 - Chính Sách Khen Thưởng
P. 101

MỤC B.  NHỮNG VẤN ĐỀ  c ơ b ả n t r o n g
                CÔNG TÁC TỔ  CHỨC HOẠT ĐỘNG CÔNG ĐOÀN







                             Mục  I.  TỔNG  QUAN  NHỮNG  VẤN  ĐỂ cơ  BẢN
                                       VỀ  CÔNG  ĐOÀN  VIỆT  NAM







                               A. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH yÀ  PHÁT TRIỀN
                                  CỦA Tỏ CHỨC CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM






       I.  Quá trình hình thành giai cấp công nhân Việt Nam và sự ra đời của công hội đó

            1.  Sự hình thành giai cấp công nhân Việt Nam

            Trước thế  kỷ XV,  Việt  Nam  chưa  có  những  điều  kiện  thuận  lợi  cho  sự  phát triển  công,  thương
        nghiệp và kinh tế hàng hóa,  nhưng đã có tầng lớp thợ thủ công.  Sang thế kỷ XV, XVI đội ngũ “ Những
        người  lao động  làm thuê” đã xuất hiện. Đầu thế kỷ XIX,  ngành  khai  mỏ phát triển và hàng  ngàn “thợ”
        mỏ làm việc trong  các mỏ khai thác than, thiếc.  Nhưng đó chưa  phải  là công  nhân  hiện đại,  sản  xuất
       trong dây chuyền công nghiệp.

            Đội ngũ công nhân Việt Nam xuất hiện khi có cuộc khai thác thuộc địa lần thứ I  (từ năm  1897 đến
        năm  1914) của thực dân  Pháp.  Khu công  nghiệp tập trung ở Hà Nội,  Sài Gòn,  Hải  Phòng,  Nam Định,
       Vinh - Bến Thủy,  Hòn  Gai đã  làm cho số công  nhân tăng  nhanh... số lượng  công  nhân  năm  1906  là
       49.500 người trong đó có 1.800 thợ chuyên môn.

            Nhiều xí nghiệp tập trung  đông  công  nhân  như;  Xi  măng  Hải  Phòng  có  1.500  người,  3  nhà  máy
        dệt ở Nam Định, Hải Phòng, Hà Nội cũng có 1.800 người, các nhà máy xay xát ở Sài Gòn có tới 3.000
        người,  riêng trên  các tuyến đường  sắt Vân  Nam -  Hải  Phòng  đã thu  hút tới  6 vạn  người.  Ngành  mỏ
        (năm  1914) có tới 4.000 thợ,  đó là chưa kể số “thợ theo mùa”.  Tổng số công  nhân Việt Nam tính đến
        trước chiến tranh thế giới lần thứ I có khoảng  10 vạn người.

            Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ I  kết thúc, thực dân  Pháp tiến  hành cuộc khai thác thuộc địa
        lần thứ II  (1919-1929)  nhằm tăng cường vơ vét,  bóc lột nhân dân thuộc địa để bù đắp những tổn thất
        trong chiến tranh.
     >'     Sự phát triển của một số ngành công nghiệp khai khoáng, dệt, giao thông vận tải, chế biến...  dẫn
   f    đến số lượng công  nhân tăng  nhanh,  công  nhân  mỏ và công  nhân đồn điền  nhiều  nơi tập trung  hàng
        vạn  người,  ở các thành  phố,  nhiều  nhà  máy đã  có trên  1.000 công  nhân  như  nhà  máy Xi  măng  Hải
        Phòng, nhà máy Dệt Nam Định.
            Đến cuối năm  1929, tổng số công nhân làm việc trong các doanh nghiệp của tư bản Pháp là hơn


                                                                                                     103
   96   97   98   99   100   101   102   103   104   105   106