Page 106 - Chính Sách Khen Thưởng
P. 106

III.  Phong  trào công  nhãn  và  Công  đoàn  Việt  Nam trong  những  năm  toàn  quốc  kháng  chiến
            (1946-1954)
              Trước yêu  cầu  và  nhiệm  vụ  mới  của cách  mạng,  ngày 20/6/1946,  Hội  nghị  Cán  bộ  công  đoàn
         cứu quốc toàn quốc đã quyết định đổi tên“Hội công  nhân  cứu  quốc” thành “Công đoàn” và thành  lập
         Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam do đồng chí Trần Danh Tuyên làm Tổng thư ký.
             ’ Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, công đoàn các cấp đã động viên công nhân tham gia chiến đấu,
         vận động công nhân di chuyển hàng vạn tẩn máy móc, thiết bị,  nguyên vật liệu ra vùng căn cứ để xây
         dựng  cơ  sở  sản  xuất,  phục  vụ  kháng  chiến  lâu  dàl.  Đến  cuối  năm  1947,  ngành  công  nghiệp  quốc
         phòng đã xây dựng được 57 cơ sở sản xuất mới, chủ yếu là xưởng sản xuất, sửa chữa vũ khí.
              Vấn đề củng cố và phát triển  Công đoàn được gắn  chặt với  nhiệm vụ  sản xuất và chiến đấu  ổn
         định đời sống của công nhân. Tính đến  năm  1950, TLĐLĐ Việt Nam đã có 241.720 đoàn viên. Trong
         đó số đoàn viên công đoàn ờ vùng tự do là 194.000 người.
              Dưới  sự  lãnh  đạo  của  Đảng,  Công  đoàn  Việt  Nam  tập  hợp,  đoàn  kết  rộng  rãi  CNLĐ  trong  cả
         nước cùng toàn dân đấu tranh xây dựng,  bảo vệ chính quyền nhân dân, bảo vệ  nền độc lập dân tộc,
         bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động.
              Từ ngày  1/1/1950 đến  ngày  15/1/1950, tại  chiến  khu Việt  Bắc, Đại  hội  lần thứ  I  Công đoàn  Việt
         Nam đã họp và đề  ra nhiệm vụ  mới của giai cấp công nhân và Công đoàn trong  kháng chiến. Đại hội
         đã bầu đồng chí Hoàng Quốc Việt,  ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng làm Chủ tịch, đồng chí Trần
         Danh Tuyên được bầu làm Tổng thư ký Tổng LĐLĐ Việt Nam.
              Sau đạl hội,  phong trào công  nhân và hoạt động công đoàn  ở vùng tự do có nhiều chuyển  biến.
         Phong trào “ Thi đua sản xuất, thi đua xây dựng” ,” Cải tiến kỹ thuật, phát huy sáng kiến, trau dồi nghề
         nghiệp”... phát triển sâu rộng. Công nhân các nhà máy, công xưởng đã sản xuất ra nhiều vũ khí, khí tài
         phục vụ chiến đẩu.  Song song với việc đẩy mạnh  phong trào thi đua sản xuất,  chiến đấu,  công đoàn
         đặc biệt coi trọng công tác giáo dục, bồi dưỡng nâng cao trình độ văn hóa và nghề nghiệp, ý thức giai
         cấp cho công nhân, bước đầu tổ chức thực hiện chê độ công nhân tham gia quản lý sản xuất, quản lý
         lao động, thực hiện dân chủ hóa trong quá trình sản xuất.
              Trong vùng địch tạm chiến, đa số công nhân,  lao động vẫn tìm mọi cách tham gia các hoạt động
         ủng hộ kháng chiến. Tổ chức công đoàn ở các nhà máy, đồn điền,  hầm mỏ được giữ vững; đã tranh
         thù  vận  dụng  mọi  hình  thức  tổ  chức  và  đấu  tranh  để  tuyên  truyền,  giác  ngộ  công  nhân;  đẩy  mạnh
         phong trào phá hoại kinh tế địch; đấu tranh chống âm mưu  kéo dài và mở rộng chiến tranh của địch;
         chống địch phá hoại và di chuyển máy móc, tạo thuận lợi cho việc tiếp quản các thành phố, thị xã sau
         giải phóng.
              Từ năm 1951, Công đoàn Việt Nam đã đẩy mạnh các hoạt động quốc tế nhằm tranh thủ sự giúp
         đỡ, ủng hộ to lớiỊ của giai cấp công nhân và công đoàn các nước anh em và bầu bạn khắp năm châu,
         góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta.

         IV. Giạỉ cấp công nhân và công đoàn Việt Nam trong sự nghiệp xâỵ dựng chủ nghĩa xã hội  ờ
            miền Bắc và đấu tranh chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất Đất nước (1954 -1975)
              1.  Thời kỳ 1 9 5 4-1960
              Sau  chiến thắng Điện  Biên  Phủ  và  Hiệp định  Giơnevơ được  ký kết,  miền  Bắc được hoàn toàn
         giải phóng đã nhanh chóng bắt tay tiến hành khôi phục kinh tế.
              Năm  1955,  ờ  miền  Bắc  lực  lượng  công  nhân,  viên  chức  thuộc  khu  vực  sản  xuất  vật  chất  có
          khoảng 76.000 người, số công  nhân,  viên  chức trong  các ngành  công  nghiệp quốc doanh  là 21.200
          người, trong đó số công  nhân trực tiếp sản xuất là 17.000 người, và hơn 16.000 công  nhân  làm thuê
          trong  các  xí  nghiệp  tư  bản  tư  doanh  thuộc  nhiều  ngành  và  một  lực  lượng  thợ  thủ  công  khoảng
          298.000 người. TLĐLĐ Việt Nam có 1.100 công đoàn cơ sở và 14 vạn đoàn viên công đoàn.
              Hội  nghị  cán  bộ công  đoàn toàn  miền  Bắc,  năm  1956,  đã xác định  công  đoàn  phải  chuyển  dần
         toàn  bộ  hoạt động của mình  vào việc tổ chức và động viên  công  nhân,  lao động tham  gia  khôi  phục
          sản xuất,  ổn định và nâng cao đời sống, tăng cường  ủng  hộ cuộc đấu tranh của công  nhân  lao động
          miền Nam chống lại sự đàn áp khủng bô của Mĩ- Diệm.
              Những hoạt động tích cực của phong trào công nhân và Công đoàn đã góp phần khôi phục kinh


          108
   101   102   103   104   105   106   107   108   109   110   111