Page 107 - Chính Sách Khen Thưởng
P. 107

tế ở miền Bắc nói chung và công nghiệp miền Bắc nói riêng. Đến cuối năm  1957, tỉ trọng công nghiệp
    tuy còn thấp nhưng đã chiếm 17,28% thu nhập quôc dân.
         Để có cơ sở pháp  lý cho  hoạt động  công  đoàn,  ngày 5-11-1957,  Chủ tịch  nước  ra sắc lệnh  số
    108-SƯL10 ban  hành  Bộ  luật Công đoàn.  Sự kiện  này đánh dấu  một bước  ngoặt lớn trong việc kiện
    toàn tổ chức và nâng cao vị thế của Công đoàn Việt Nam.
         Cho đến năm 1960, số lượng đoàn viên công đoàn có 308.386 người với 2.501  công đoàn cơ sở
    được phân  bổ ờ  hầu  hết các xí nghiệp,  công trường,  nông trường,  cơ quan, số lượng  cán  bộ công
    đoàn chuyên trách từ cơ sở đến Trung ương là 2653 người. Đội  ngũ cán bộ công đoàn không những
    phát triển về số lượng mà còn tăng nhanh cả về chât lượng.
         Trong thời  kỳ  1954-1960, Tổng  Liên đoàn  Lao động Việt Nam đã tăng  cường các hoạt động đối
    ngoại  nhằm trao  đổi  kinh  nghiệm trên  nhiều  lĩnh  vực với  các tô  chức  Công  đoàn  các  nước trên  thê
    giới, đặc biệt là tổ chức Công đoàn các nước XHCN. Thông qua hoạt động quốc tế, môi quan hệ hữu
    nghị,  hiểu  biết,  giúp  đỡ  lẫn  nhau  giữa  giai  cấp  công  nhân  Việt  Nam  VỚI  giai  câp công  nhân  thê  giới
    đựợc tănp cường, tạo điều kiện cho nhân dân ta tiến hành cách mạng CNXH ở miền Băc và đấu tranh
    thống nhat nước nhà.
         ở  miền  Nam,  công  nhân,  lao động tiếp tục cuộc đấu tranh  chống  Mỹ và bè  lũ tay sai  Ngô Đình
     Diệm trong điều kiện vô cùng khó khăn.  Hàng hóa Mỹ và một sô nước tư bản tràn vào miền Nam làm
     cho các  ngành  công  nghiệp,  thủ  công  nghiệp  miền  Nam  bị  đình  đốn.  Năm  1958,  có  hơn  80% công
     nhân ngành Dệt bị sa thải. Năm 1959, số người thất nghiệp ở toàn miền Nam lên tới 1,5 triệu người.
         Trong khi đó, Mỹ-Diệm ra sức khủng bố “chống cộng”, ‘Thanh khiết nghiệp đoàn”, thực hiện chiêu
     bài  “hòa  hợp  giai  cấp”,  “lao tư  hường  lợi”,  “nghiệp  đoàn  không  làm  chính  trị”,  nhằm tiêp tục  chia  rẽ
     phong trào công nhân lao động, loại trừ tư tưởng tiến bộ và hạn chế ảnh hường của cách mạng trong
     công nhân.
         Trước tình hình cực kỳ khó khăn của cách mạng miền Nam, Đảng đã chỉ đạo các cơ sở trong nội
     thành, trong các đồn điền phải tìm mọi cách bám đất, bám dân phát triển lực lượng, tổ chức cho công
     nhân đấu tranh.  Vì vậy,  từ năm  1954 đến  cuối  năm  1960 trên toàn  miền  Nam đã có trên 2.300 cuộc
     đấu tranh  của CNLĐ,  tiêu  biểu  là  cuộc xuống  đường  biểu tình  của gần  50  vạn  CNLĐ  Sài  Gòn  ngày
     1/5/1958, cuộc biểu dương lực lượng của CNLĐ, ngày 1/5/1959 của hơn 20 vạn CNLĐ và nhân dân ở
     các thành phố lớn ờ miền Nam như: Huế, Đà Nang, cần Thơ, Sài Gòn- Chợ Lớn...
         Phong  trào  CNLĐ  miền  Nam  trong  những  năm  1954-1960  đã  diễn  ra  mạnh  mẽ,  đều  khắp  với
     nhiều hình thức đấu tranh phong phú, đa dạng có tác dụng to lớn đối với phong trào đấu tranh chung
     của các tầng lớp nhân dân  miền  Nam  nhằm đánh đổ đế quốc Mĩ và bè lũ tay sai.  Phong trào đã liên
     kết được công nhân nhiều ngành nghề, nhiều địa phương, nhiều tầng lớp nhân dân lao động tham gia.
     Qua đó, đội ngũ CNLĐ miền Nam được tôi luyện, trưởng thành .
         2.  Thời kỳ 1960 -1975
         Đây là thời kỳ giai cấp công nhân ờ miền Bắc thi đua lao động sản xuất và chiến đấu, tích cực chi
     viện cho miền Nam, góp phần thực hiện hai ngọn cờ là Cách mạng XHCN  ở miền Bắc và cách mạng
     dân tộc dân chủ nhân dân ờ miền Nam do đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ Ba của Đảng đề ra.
         Từ ngậy 23-27/2/1961  Đại hội công đoàn Việt Nam lần thứ II đã đưo« tổ chức tại Hà Nội. Đại
     hội đã quyêt định đổi tên Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thành Tống Công đoàn Việt Nam.
     Đồng chí Hoàng  Quốc Việt -  ủy viên  TW Đảng được bầu  lại  làm  Chủ  tịch đoàn  Chủ tịch Tổng  công
     đoàn Việt Nam, đồng chí Trần Danh Tuyên được bầu lại làm Tổng thư ký.
         Để  thực  hiện  thắng  lợi  các  mục tiêu  kinh  tế,  xã  hội,  Tổng  Công  đoàn  Việt  Nam  đã  động  viên
     CNVCLĐ thi đua “phấn đấu trở thành tổ đội lao động xã hội chủ nghĩa”, hưởng ứng phong trào “3 xây,
     3 chống” , “Mỗi người làm việc bằng hai”. Các phong trào này đã được đông đảo công nhân, lao động
     trong các nhà máy xí nghiệp tham gia,  điển  hình  là:  Nhà  máy cơ khí Duyên  Hải  (Hải  Phòng)  và  Hợp
     tác xã thủ  công  nghiệp Thành  Công  (Thanh  Hóa).  Đây là những đơn  vị  có thành tích  xuất sắc trong
     khối công nghiệp và thủ công nghiệp.
         Công đoàn các cấp, thường xuyên tổ chức những buổi  nói chuyện thời sự, tọa đàm qua đó làm
     cho  đoàn  viên  thấy  rõ trách  nhiệm  của  mình,  quyết tâm  hoàn  thành  kế  hoạch  nhà  nước;  vận  động
     công  nhân  phát  huy  sáng  kiến,  cải  tiến  kỹ  thuật  và  tổ  chức,  nâng  cao  năng  suất  lao  động.  Những
     phong trào thi đua được công đoàn cơ sở đề ra kịp thời, thiết thực như: ‘liến quân giành 3 điểm cao”

                                                                                                 109
   102   103   104   105   106   107   108   109   110   111   112