Page 105 - Chính Sách Khen Thưởng
P. 105

cấp công  nhân  Việt  Nam,  mở  rộng tính  quần  chúng  của tổ  chức công  đoàn.  Dưới  sự  lãnh  đạo  của
    Đảng, tổ chức Hội ái hữu đã tiến hành một cuộc vận động sôi nổi trong phong trào công nhân, kết hợp
    đấu tranh công khai và bán công khai, mờ rộng đấu tranh ở nghị trường,  buộc thực dân Pháp phải thi
    hành một số cải cách xã hội chưa từng có trong xã hội Việt Nam . Trong thời kỳ này, chủ nghĩa Mác-
    Lênin được công  khai truyền  bá trong công  nhân,  nhân dân  lao động, trực tiếp giáo dục chính trị cho
    hàng triệu quần chúng, tạo nên một cao trào cách mạng trong cách mạng Việt Nam.             I
         3.Thời kỳ 1939 -1945
         Năm  1939,  lấy  cớ  phục  vụ  chiến  tranh,  bọn  phản  động  thuộc  địa  ban  hành  nhiều  chính  sách
    cưỡng bức lao động. Công nhân bị ép buộc đi xây dựng đường chiến lược, pháo đài, giao thông hào.
    Ngày  28/9/1939,  thực  dân  Pháp  ra  sắc  lệnh  giải  tán  các  Hội  ái  hữu,  bắt trên  2.000  hội  viên.  Ngày
    10/11/1939, Toàn quyền Đông  Dương  ra nghị định tăng giờ làm việc,  60 giờ đôi với công nhân  nam,
    54 giờ/ tuần đối với công nhân nữ và trẻ em và còn đe dọa tăng lên 72 giờ/ tuân đối với một sổ xưởng
    kĩ nghệ có liên quan đến chiến tranh, số quyền lợi  ít ỏi về chế độ lao động và tự do, dân chủ mà công
    nhân giành được trong cao trào 1936 -1939 đã bị bọn phản động thuộc địa thủ tiêu.
         Trước tình  hình đó,  Hội  nghị  lần thứ 6  Ban Chấp  hành TW Đảng quyết định thành  lập “Mặt trận
    thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương”. Tổ chức “Hội công nhân phản đế” chủ trương tổ chức các
    nhóm 3 người gọi la ‘Tam tam chế” do một đảng viên phụ trach, với nhiệm vụ  là đấu trạnh bảo vệ lợi
    ích hàng ngày của công nhân,  làm cách mạng  lật đổ chính quyền thực dân và phong kiến,  giải phóng
    giai cấp và dân tộc. Trong điều kiện ẩy, các cuộc bãi công vẫn nổ ra; từ giữa năm 1939 đến giữa năm
    1940, công nhân còn lợi dụng Hội đồng hòa giải để đấu tranh hợp pháp chống các hành động bóc lột,
    đàn áp của chủ tư bản. Theo thống kê, Hội đồng hòa giải đã phải giải quyết 1.647 vụ xung đột cá nhân
    và 100 vụ xung đột tranh chấp tập thể.
         Cuối  năm  1940,  Nhật  kéo quân  vào Đông  Dương,  tình  thế  cách  mạng  chuyển  sang  một  bước
    mới.  Hội  nghị  lần thứ 8  Ban  chấp  hành TW  t)àng(tháng  5-1941)  quyết định thành  lập “Việt  Nam độc
    lập  đồng  minh”  (gọi  tắt  là  Việt  Minh);  “Hội  công  nhân  phản  đế”  đổi  tên  thành  “  Hội  công  nhân  cứu
    quốc”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với hình thức tổ chức thích hợp, mục tiêu đấu tranh rõ ràng, phong
    trào công nhân cứu quốc phát triển mạnh mẽ ở Bắc Kì, Trung kì, nhất là ở các địa phương Hà Nội, Hải
     Phòng, Hòn Gai...
         Bước sang  năm  1941,  các  nơi  đã  xuất  hiện  hình  thức tiền  vũ  trang  của công  nhân.  Ngoài  các
     cuộc đấu tranh chống  sự bóc lột về  kinh tế của chủ tư bản,  phong trào đấu tranh của công  nhân đã
     mang nội dung chống phát xít, chống chiến tranh tiến tới thành lập các tổ chức tự vệ vũ trang chuẩn bị
     cho tổng khởi nghĩa khi thời cơ đến.
         Năm 1942, một số cuộc bãi công có quy mô lớn như: Cuộc bãi công của 700 công nhân các đồn
     điền cao su An  Lộc,  Xuân  Lộc (Biên  Hòa),  các cuộc đấu tranh của cônp  nhân  nhà máy giấy Việt Trì,
     công  nhân công trường sân  bay Gia  Lâm...  Bên  cạnh  các khẩu  hiệu đau tranh đòi tăng  lương,  giảm
     giờ làm, chống đánh đập... đã xuất hiện các khẩu hiệu đòi Pháp - Nhật bán nhiều gạo.
         Năm 1943, đời sống và việc làm của công nhân gặp rất nhiều khó khăn.  Song với tinh thần cách
     mạng kiên cường, giai cap công nhân và Hội công nhân cứu quốc vẫn phát triển. Phong trào đấu tranh
     trên các địa bàn trọng yếu  như Hà  Nội,  Việt Trì,  Nghệ An... được tổ chức với quy mô lớn.  Với sự kết
     hợp các hình thức đấu tranh chính trị và nửa vũ trang theo tổ, nhóm.
         Đến  năm  1944 đã  hình  thành  nhiều  xưởng  quân  giới  bí mật,  nòng  cốt  là công  nhân  cứu  quốc
     chiến khu Đông Triều, Vinh - Bến Thủy và ờ thời điểm này, tổng số hội viên  Hội công nhân cứu quốc
     có trên 13 vạn, trở thành lực lượng nòng cốt của cách mạng.
         Đầu  năm  1945,  Hội  Công  nhân cứu quốc đã  lãnh đạo cuộc đấu tranh phá  kho thóc của  Nhật ở
     Băc Ninh,  Hà  Nội  ...  chia cho dân  nghèo.  Từ giữa tháng 3  năm  1945,  phong trào đấu tranh  chính trị
     phát triển  mạnh  mẽ kết hợp với đấu tranh vũ trang,  khởi  nghĩa từng  phần ở nhiều  nơi. Tháng 8 năm
     1945, giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng đã cùng với nhân dân cả nước đánh đổ phát xít
     Nhật và chính quyền  phong  kiến,  giành  độc  lập dân tộc,  lập  nên  nước Việt  Nam  dân  chủ  cộng  hòa,
     Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á.







                                                                                                 107
   100   101   102   103   104   105   106   107   108   109   110