Page 111 - Chính Sách Khen Thưởng
P. 111

sản xuất,  khắc phục hậu  quả của 30  năm chiến tranh,  góp phần  xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội
    chủ nghĩa.  Bên cạnh những kết quả đạt được, cũng bộc lộ những mặt hạn chế như: Công tác chỉ đạo
    thi  đua còn  chung  chung,  chưa tập trung  vào  phát  huy quyền  làm  chủ tập thể  xã  hội  chủ  nghĩa của
    công  nhân,  viên chức.  Công  đoàn  chưa thực sự là cơ quan  đại  diện quyền  làm chủ  của công  nhân,
    viên chức, chưa mạnh dạn đấu tranh bảo vệ quyền lợi cho người lao động.
        3.  Thời kỳ 1981 -1986
        Trong  bối  cảnh  đất  nước  gặp  nhiều  khó  khăn  do  khủng  hoảng  kinh  tế  -  xã  hội,  Công  đoàn  đã
    động viên công  nhân thực hiện tốt những cải cách  bước đầu  của Đảng và  Nhà  nước trong  sản  xuât
    công  nghiệp  như:  tôn  trọng  quyền  chủ  đọng  sản  xuất  kinh  doanh,  quyền  tự chủ  vệ tài  chính,  của  xí
    nghiệp  quốc doanh,  thực  hiện  ba  kế  hoạch trong  sản  xuất công  nghiệp  (theo Quyết định  sô 25/CP);
    mở rộng  hình thức khoán  lương,  khoán  sản  phẩm và vận  dụng  các  hình  thức tiền thưởng trong các
    đơn v| sản xuất và kinh doanh của Nhà nước (theo Quyết định số 26/CP). Các phong trào thi đua lao
    động, sản xuất của công nhân,  lao động trên các công trình trọng điểm quốc gia,  như: Thủy điện  Hòa
    Bình, Trị An,  Nhiệt điện  Phả Lại,  Dầu khí Vũng Tàu, Xi măng Bỉim Sơn,  Hà Tiên,  Hoàng Thạch... diên
    ra liên tục, sôi nổi, phấn đấu hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu, kế hoạch được giao.
        Đến  năm  1982,  cả nước đã có hơn 3 triệu đoàn viên công đoàn tập  hợp trong 40 liên  hiệp công
    đoàn tỉnh, thành phố và 20 công đoàn  ngành Trung ương,  193 công đoàn ngành địa phương, 20.647
    công đoàn cơ sở.  Cán  bộ công đoàn chuyên trách có  14.229  người.  Hệ thống công đoàn  huyện tiếp
    tục được thành lập ở nhiều nơi, tạo điều kiện tăng cường và củng cố khối liên minh công nông.
         Từ ngày 12/11/1983, tại Hà Nội, Đại hội đại biểu lần thứ V Công đoàn Việt Nam đã được tổ
    chức.  Dự đại  hội  có 949 đại  biểu. Đại  hội  khẳng  định tiếp tục thực  hiện  nhiệm vụ  chụng của công
    đoàn trong cách  mạng Áã hội  chủ  nặhĩa đã được nêu  ra từ Đại  hội  Công đoàn toàn quốc lần thứ  IV.
    Đại  hội đề ra  những  nhiệm vụ cụ the của phong trào công  nhân và Công đoàn Việt Nam,  nhằm thực
    hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam.
         Đồng chí Nguyễn Đức Thuận -  ủy viên TW Đảng được bầu lại làm Chủ tịch, đồnq chí Phạm Thế
    Duyệt -  Uy viên dự khuyết TW Đảng được bầu  làm  Phó chủ tịch  kiêm Tổng thư ký Tổng Công đoàn
    Việt Nam. Đại hội quyết định lấy ngày 28/7/1929 là ngày thành lập Công đoàn Việt Nam.
         Ngày  2/8/1984,  Hội  nghị  Ban  chấp  hành  Tổng  Công  đoàn  lần  thứ  ba  (khóa  V)  họp  thông  qua
    chương trình hành động của Công đọàn thực hiện  Nghị quyết 6 Ban Chấp hành TW về sắp xếp và tổ
    chức lại sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế,  khắc phục lối  làm ăn theo kiểu
    hành chính quan  liêu,  bao cấp,  chuyển  mạnh  sang  chế độ  hạch toán  kinh  tế,  kinh  doanh  xã  hội  chủ
    nghĩa.
         Quán triệt tinh thần đó,  các cấp công  đoàn đã tổ  chức nhiều  hội  nghị  chuyên  đề  bàn  biện  pháp
    tháo gỡ khó khăn  trong  sản  xuất,  thúc đay công tác cải tiến  quản  lý,  tổ chức  lại  sản  xuất,  tận  dụng,
    khai thác tiềm  năng  về vật tư  nguyên  liệu,  năng  lực sản  xuất của  đơn  vị,  địa  phương,  ngành.  Ngày
    18/4/1985, Tổng Công đoàn ra chỉ thị số 27/CT-TCĐ yêu cầu các cấp công đoàn ‘Iham gia với các cấp
    chính quyền, các cơ quan Nhà nước sửa đổi bổ sung, xây dựng các chế độ, chính sách, cơ chế quản
    lý. Bản chỉ thị đã xác định 4 nội dung công tác chính cần thực hiện ở công đoàn cơ sở là; Tuyên truyền
    giáo dục CNVC; tham gia cải tiến các mặt quản lý ở xí nghiệp: tỗ chức thực hiện quyền  hạn và nghĩa
    vụ làm chủ tập thể của CNVC và cải tiến tổ chức, nâng cao năng lực của công đoàn cơ sở. Đồng thời
    cũng xác định những công việc cụ thể mà các cấp công đoàn cần tập trung giẩi quyết.
         Đến cuối  năm  1985,  riêng  ngành  Công  nghiệp  Hà  Nội đã giảm dược 3000  lao động,  chiếm gần
    10% tông số CNVC; ngành Công nghiệp Hải Phòng giảm 2000 người; tỉnh Quảng Nam - Đà Nang lực
    lượng gián tiếp giảm từ 25-27%.
         Cùng với các hoạt động tham gia quản  lý,  phong trào thi đua phấn đấu  hoàn thành thắng  lợi  kế
    hoạch Nhà nước phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, thực hành tiết kiệm, tạo bước chuyển biến trong
    sản xuất công nghiệp diễn  ra sôi nổi. Trong 5 năm  1981  -1985, thống kê  11  ngành, 22 địa phương đã
    có 235.559 sáng kiến và 33 sáng chế. Có 310 đề tài tiến bộ kỹ thuật cấp Nhà nước và 1.270 đề tài cấp
    ngành địa phương được áp dụng vào thực tế mang lại hiệu quả kinh tế lớn. Có 7.916 lượt người được
    nhận Băng khen và huy hiệu Lao động sáng tạo.
         Phong trào xây dựng tổ đội  lao động xã hội chủ  nghĩa,  năm  1981  có  15.281  tổ được công  nhận
    danh hiệu tổ lao động XHCN, trong đó có 14.260 tổ thuộc khu vực Nhà nước (chiếm 93%). Năm  1982,


                                                                                                -113
   106   107   108   109   110   111   112   113   114   115   116