Page 51 - Các Thuốc Chống Dị Ứng
P. 51
Để giữ khoảng cách vói miệng há ra, người ta lắp thêm một
đoạn ông giữa MDI vào mồm. Đoạn ổng nối (extender) này
hưóng chất khí dung vào trong miệng, trong khi đó vẫn cho
phép giảm tốc độ va chạm, tăng tốc độ bay hơi của chất đấy và
tăng sự thâm nhập của thuốc vào phổi. Đã có một số mẫu thiết
kế được nghiên cứu bao gồm đoạn ống spacer có van hoặc không
có van, và các thiết bị giông bình chứa (reservoir - type device).
Nói chung, các spacer có van và thiết bị dạng hình chứa lắp
thêm vào giúp cho giữ được lượng thuốc nhiều hơn trong spacer
và ít bị lắng đọng hơn ở họng miệng hơn so vối các thiết bị
không có van. Người ta đã tiến hành các thực nghiệm rộng rãi
vói các thiết bị này và cũng đã đưa ra nhiều kết luận khác
nhau. Có vẻ là ưu điểm của các spacer chủ yếu là ỏ những bệnh
nhân không sử dụng đúng kỹ thuật khí dung, đặc biệt là ả
những bệnh nhân có khó khăn trong việc phồi hợp kích hoạt
bình xịt với sự hít vào. Do tỷ lệ bệnh nhân sử dụng MDI sai kỹ
thuật còn nhiều nên spacer đã đem lại lợi ích cho một tỹ lệ
đáng kể bệnh nhân.
Người ta cũng đã công bô" rằng có thể đạt được mức độ giãn
phế quản lớn hơn bằng cách sử dụng từng đợt ngắt quãng khí
dung thuốc giãn cơ hơn là sử dụng tổng liều lượng trong 1 lần.
Tuy nhiên, không có khác biệt đáng kể trong phản ứng giãn phế
quản khi hai lần xịt terbutaline từ MDI được thực hiện cùng một
lúc hay cách nhau 3 hoặc 10 phút. Trong khi đó các nghiên cứu
khác có thấy sự khác biệt không nhiều trong phản ứng giãn phế
quản. Chỉ có sự khác biệt không lớn trong FEV1 là 5% khi người
ta xịt liền 2 lần fenoterol từ MDI hoặc xịt từng cái một cách nhau
10 phút. Khi người ta so sánh đường đồ thị liều lượng- phản ứng
của thuốc isoproterenol sử dụng 4 liều tăng dần vào 4 ngày khác
nhau vổi cách sử dụng cùng một liều tổng như vậy nhưng chỉ
trong một ngày với quãng cách thòi gian 5 phút, thấy rằng cách
sau chỉ làm tăng 15% FEV1 so với cách đầu
53