Page 46 - Các Thuốc Chống Dị Ứng
P. 46
đó những bệnh nhân này được điều trị tiếp bằng 15 mg
metaproterenol khí dung mỗi giò trong vòng 3 giò; một nửa
trong sô" bệnh nhân này được điều trị bô sung bằng theophylline
ỏ liều thông thường, 1 nửa còn lại được bố sung bằng placebo.
Không thấy có sự khác biệt trong phản ứng giữa những người
chỉ được điều trị bằng metaproterenol và những ngưòi được
điều trị metaproterenol + aminophylline, thậm chí ở cả những
đỗi tượng có FEV1 ban đầu là 0,8 L hoặc thấp hơn. Tuy nhiên tỷ
lệ có tác dụng phụ cao hơn gấp đôi ở những đôi tượng có sử dụng
cả aminophylline. Người ta kết luận rằng aminophylline tiêm
tĩnh mạch có rất ít vai trò trong bất cứ thời điểm điều trị bệnh
hen cấp tính nào.
Ở phòng cấp cứu, phản ứng có được bằng khí dung nhắc lại
của một chất đồng vận ß có tiềm năng thường lớn hơn so với
phản ứng có được bằng tiêm nhắc lại epinephyrine với sô" lần
nhắc lại tương tự. Điểu này cũng đả được khẳng định trong một
so sánh chéo ba lần khí dung bằng 15 mg metaproterenol với
quãng cách thòi gian 30 phút với ba lần tiêm dưới da 3ml 1:
1000 epinephyrine. Tuy nhiên chỉ có 12% nhũng đối tượng được
điều trị bằng epinephrine là không có đáp ứng so với 36%
những ngưòi điều trị bằng metaproterenol. Trong nghiên cứu
chéo 1/6 những ngưòi không đáp ứng với điều trị epinephyrine
và 13/18 những người không đáp ứng với điều trị metaproterenol
lại đáp ứng với điểu trị thay thế. Những đối tượng không đáp
ứng vối metaproterenol đặc trưng bởi thòi gian có triệu chứng
dài hơn so với những đổi tượng có đáp ứng (trung bình 9 ngày so
với 4 ngày). Có thể là sự bít tắc đưòng hô hấp của họ phần nhiều
là do phù nề và dịch nhầy và ít yếu tô" co thắt cơ trơn phế quản
hơn và những yếu tô" này đáp ứng tốt hơn với tiêm epinephrine.
Ở Anh, người ta đã sử dụng các đồng vận chọn lọc ß bằng
đường tĩnh mạch để chữa bệnh hen cấp tính nặng. Và đã có một
sô" nghiên cứu được thực hiện để so sánh phản ứng đối với các
thuốc này.
48