Page 43 - Các Thuốc Chống Dị Ứng
P. 43
sau đó cho bổ sung thêm 1 liều thuổc loại khác để xem liệu có
thêm sự cải thiện chức năng phổi hay không. Nồng độ
theophylline trong huyết thanh tại điểm có phản ứng (giãn phê
quản) tôi đa dao động từ 9 - 2 0 jag/ml và sự tăng trung bình
dung tích sống gắng sức (forced vital capacity -FVC) là 0,6251.
Khí dung 400p.g albuterol từ MDI làm tăng thêm FVC lên
0,5521 và làm giãn thêm phế quản ỏ 10/12 đỗĩ tượng. Khi
albuterol khí dung đạt được sự giãn phế quản tối đa, sự tăng
FVC trung bình là 1,021 và khi thêm 1 liều hiệu quả
theophylline, giá trị FVC tăng thêm được 0,131 và giãn phê
quản cũng tăng thêm đáng kể trong 4/10 đôi tượng. Những
nghiên cứu này đã chỉ ra rằng albuterol khí dung ở các liều
lượng dung nạp tốt là một chất gây giãn phế quản tiềm năng
hơn so với theophylline ở các liều điều trị tối đa. Tuy nhiên, các
nghiên cứu này chỉ nhìn vào tác dụng đỉnh điểm mà không tính
đến độ dài thòi gian tác động. Các kết quả trên chưa phải là
những kết quả của những nghiên cứu chính xác có thể áp dụng
được cho điều trị duy trì kéo dài
Người ta đã thực hiện các nghiẽn cứu so sánh theophylline
và các thuốc giãn phế quản p-adrenergic trong quá trình điều
trị kéo dài, nhưng chỉ sử dụng các liều thông thường. Điểu trị
trẻ em bằng các liều điều trị của theophylline hoặc
metaproterenol với các liều uống lOmg hoặc 20mg 4 lần ngày
cũng đã được thực hiện để so sánh. Điều trị bằng theophylline
dẫn đến các tốc độ dòng khí đỉnh điểm cao hơn, kiểm soát các
triệu chứng hen tốt hơn, ít phải sử dụng thuốc bô sung hơn và
kiểm soát tốt hơn sự co thắt phế quản do gắng sức. Ngưòi ta đã
thực hiện việc so sánh theophylline với các nồng độ điều trị
trong máu, fenoterol 0,lmg/kg và placebo ở trẻ em dưới 6 tuổi
bị hen. Kết quả cho thấy không có sự khác biệt đáng kể giữa
các kết quả điều trị bằng theophylline và fenoterol. Kết quả
tương tự cũng đạt được khi so sánh theophylline và albuterol
uống (4mg) ba lần ngày ở người lớn.
45