Page 41 - Các Thuốc Chống Dị Ứng
P. 41
mạch và khí dung của cùng 1 loại thuốc. Khi terbutaline được
truyền tĩnh mạch, xuâ't hiện sự tăng FEV1 lên 40% nhưng lại
làm tăng nhịp tim lên trên 25 lần/phút và run đáng kể.
Khi terbutaline được sử dụng khí dung, thu được mức độ
giãn phế quản tương tự mà không có triệu chứng phụ như run
và tăng nhịp tim. Trong lâm sàng, sử dụng terbutaline 5 mg
uông bôn lần/ ngày tương đương với 500ịig khí dung từ MDI bôn
lần/ ngày ở những bệnh nhân đang sử dụng theophylline giải
phóng chậm. Trong khi PEFR buổi sáng và tối trở nên tốt hơn
khi sử dụng terbutaline cả đường uống và khí dung, nhưng
điểm sô' các triệu chứng hen và sự sử dụng thuốc giãn phế quản
cấp cứu chỉ tốt hơn đáng kể khi đốỉ tượng sử dụng terbutaline
khí dung.
Albuterol uống với liều 0,15jig/kg có hiệu quả tương đương
với khí dung 200ng bằng MDI trong việc ngăn ngừa hen do gắng
sức à trẻ em. Tuy nhiên, thực tế không thấy có phản ứng phụ
sau khi khí dung albuterol, ngược lại sử dụng uống cũng hay
gây ra triệu chứng run và tăng nhịp tim. Các nghiên cứu khác
đã khẳng định rằng các đồng vận p khí dung là sự điều trị hiệu
quả nhất trong việc phòng ngừa co thắt phế quản do gắng sức
và ít gây ra các tác dụng phụ nhất.
Do vậy, việc sử dụng các đồng vận p qua đường uống có thể
có vai trò rất hạn chế trong điều trị bệnh hen phế quản: có thể ở
trẻ em nhỏ khi mà không sử dụng được khí dung, ỏ những
trường hợp bệnh nhân già quá không thể sử dụng bình xịt MDI
thậm chí có gắn thiết bị phụ trợ spacer, hoặc trong một số'
trưòng hợp khi mà tác dụng của các đồng vận p khí dung quá
ngắn, nhưng việc sử dụng đưòng uống chủ yếu là để điều trị hen
về đêm. Hen về đêm có liên quan về thòi gian với ( và có thể là
do) sự giảm bài tiết catecholamine nội sinh theo chu kỳ ngày.
Sự giảm chức năng phổi về đêm có thể được phong bế bằng cách
truyền tĩnh mạch epinephrine. Tác dụng có lợi tương tự lên
bệnh hen về đêm có thể có được bằng cách uổng các thuốc đồng
vận p giải phóng chậm vào giờ đi ngủ.
43