Page 82 - Biến Chứng Bệnh Đái Tháo Đường
P. 82
a. Điều trị triệu chứng:
Chủ yếu là điều trị nhiễm toan và tảng acid lactic huyết,
khôi phục tình trạng huyết động và phòng, điều trị thiểu niệu,
vô niệu.
♦
Điều trị nhiễm toan
Đây là tình trạng nhiễm toan nặng, vân đề đặt ra là có
cần phải trung hoà acid không và bằng cách nào. Tình trạng
nhiễm toan nặng gây nên những hậu quả rất nặng nề như: có
thể là nhịp chậm nút, ức chế trung tâm hô hấp, nhịp tim bị rối
loạn có thể xuâ't hiện kiểu 2 pha, nhịp tim nhanh do kích
thích giải phóng các catecholamin khi pH = 7,1. Khi pH< 7,1
thì nhịp tim bị chậm lại, tình trạng toan máu nặng có thể gây
giảm khả năng co bóp cơ tim, gây giãn các động mạch. Tóm
lại, nhiễm toan acid lactic (pH < 7,2) tình trạng kích thích giải
phóng nhiều catecholamin sẽ bị thay thế bởi quá trình ức chế
gây nhịp tim chậm lại, giảm co bóp cơ tim, tảng tiền gánh và
nguy cơ loạn nhịp tim xuất hiện dẫn tới giảm dung lượng tim,
giảm huyết áp. Trong tình trạng nhiễm toan nặng thì ngoài
tình trạng rối loạn nhịp, rối loạn huyết động còn gây tăng kali
huyết rất nguy hiểm. Tình trạng nhiễm toan khi pH =7,2 được
coi là tình trạng nguy hiểm (ngưỡng nguy hiểm) nếu không
được điều trị kịp thòi. Bỏi vì khi đó sự cân bằng kiềm toan
không còn (HC03‘ = 10mmol/l) và khi bicarbonat (HC03‘) <
10mmol/l thì pH máu sẽ giảm xuống rất nhanh.
Loại dịch và số lượng dịch để kiềm hóa máu dùng cho tình
trạng nhiễm toan còn nhiều tranh cãi, sử dụng dịch
bicarbonat đã được áp dụng trên 50 năm đã cải thiện tốt tình
trạng này. Khoảng 20 năm trở lại đây vấn đề dùng một lượng
lớn bicarbonat (trung bình 600mmol/l) đã làm thay đổi tiên
lượng bệnh.
Cotten 1976 dùng bicarbonat liều cao truyền tĩnh mạch
điều trị đă khôi phục được pH trong vòng 2-6 giò và cải thiện
tốt tình trạng bệnh nhân.