Page 79 - Biến Chứng Bệnh Đái Tháo Đường
P. 79
Qua nghiên cứu và theo dõi trên lâm sàng ở nhiều trung
tâm đã chứng minh vai trò của biguanid làm giảm sinh glucose
và tãng sản sinh lactat ả ruột. So sánh 3 chất metformin,
phenformin và buformin cho thấy cơ chế hạ glucose huyết và
tăng lactat tương tự nhau. Metformin được tập trung ố màng ty
lạp thể do đó làm giảm vận chuyển oxy vào tế bào, chậm tân tạo
glucose và tích luỹ lactat. Khi bệnh nhân dùng buformin và
uống rượu sẽ làm tăng khả năng tạo lactat.
/ * ♦ -•
Việc sử dụng không đúng chỉ định và quá liều metformin
là nguyên nhân gây nhiễm toan acid lactic ỏ bệnh nhân đái
tháo đường. Nhiễm toan acid lactic gây nên sự chậm phân huỷ
và đào thải thuốc, sự tích tụ các sản phẩm này có thể là hậu
quả của suy thận cấp hoặc mạn tính kèm theo. Metformin
được đào thải ỏ dạng không chuyển hóa và chủ yếu qua thận,
sau khi dùng liều duy nhất 95% được đào thải ra nước tiểu,
nếu dùng nhiều ngày với chức năng thận bình thường, nồng
độ thuổc trong máu trung bình 2-3ng/ml. Nhưng khi nhiễm
toan acid lactic nồng độ metformin trong huyết thanh cao tới
12-90^ig/ml. Đặc biệt trong các trường hợp có suy thận. Quá
trình bài tiết metformin phụ thuộc vào độ thanh thải
creatinin của thận, ngoài ra còn một sô" yếu tô" ảnh hưởng tới
bài tiết metformin đó là tuổi và pH máu, metformin bị hấp
dẫn bởi pH trong tế bào. Khi bị nhiễm toan dịch ngoại bào,
hiệu ứng này sẽ tảng lên rất nhanh.
đ. Vấn đề nuôi dưỡng bằng glucose tĩnh mạch và nhiễm
toan acid lactic
Các thầy thuốc ít chú ý tới vấn để này, đặc biệt khi nuôi
dưỡng bằng đường tĩnh mạch dùng các chất như fructose,
sorbitol, xylitol. Các chất này được ưa dùng bởi chuyển hóa của
chúng không phụ thuộc insulin và kích thích hệ mạch máu tốt
hơn glucose. Tuy nhiên các loại đường nuôi dưỡng này đều kích
thích sản xuất lactat. 35% lượng fructose chuyển thành lactat
chủ yếu theo con đường yếm khí. Vì vậy khi thiếu oxy tổ chức,
8 1