Page 488 - Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam
P. 488
với văn học Pháp các đề tái là như nhau. Ta chỉ
cần đọc Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, Huy Cận là
thấy. Thứ hai, mỗi người đưa ra một đề tài mới, ra
sức duy lý hóa nó, cấp cho nó một ý nghĩa toàn
nhân loại: đề tài cái đẹp ở Thế Lữ, đề tài đau khổ
ở Chế Lan Viên, đề tải tình yêu ở Xuân Diệu, đề
tài con người nông thôn bị lạc lõng, đau khổ trong
nếp sống thành thị ở Nguyễn Bính, đề tái con người
cô đơn giứa vũ trụ ở Huy Cận. Một người không có
sự đào tạo của phương Tây như Tản Đà cũng phải
sử dụng một biện pháp mới: đó là nói lên những
ảo giác có ý thức (hallucinations conscientes) về
những mối tình tưởng tượng của tác giả với những
người đẹp thời cổ đại hay với một hồng nhan tri kỷ
theo giáo dục Tây phương. Neu không có đề tài cao
lôi cuốn thì phải chọn đề tài thấp vậy; xác thịt,
nhục dục, sự sa ngã, tội lỗi, rượu, ma túy.
Một khi nêu đề tài lên, tác giả ra sức cấp cho
nó một cơ chế triết học để cho nó mang tính toàn
nhân loại, tức lá điều không có trước đây. Điều rất
thú vỊ lá người ta nói chuyện triết học khi chưa
biết triết học. Chế Lan Viên 17 tuổi, con người má
sau này chưa hề tỏ ra có biệt tài của tư duy triết
học, nêu cao triết lý đau khổ, cái chết. Nguyễn Bính
mà quá trình giáo dục không theo phương Tây cũng
đưa ra những suy nghĩ triết học về thế thái nhân
tình, phải nói rất lôi cuốn.
Sự thâm nhập của văn hóa Pháp còn biểu hiện
khá độc đáo ở ngay trường hợp một nhá thơ là Quách
Tấn trong "Mùa cổ điển" viết nhứng bài thơ rất
490