Page 484 - Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam
P. 484
dọc (paradigme) của hệ biến cách của danh từ, tính
từ và hệ biến ngôi của động tử trong các ngôn ngữ
biến tố. Bằng cách này, ngữ pháp có khả năng thừa
thãi thích nghi với mọi yêu cầu của một từ biến tố,
đã thế còn có thể diễn đạt mọi sắc thái một cách
tinh vi.
(3) Chưa hết. Để đánh dấu các quan hệ giữa
các từ, các giới từ xuất hiện hàng loạt, cương vỊ hệt
như giới từ Pháp: "của, với, bằng, bởi, tại, ở...". Cảc
giới từ này trong văn xưa đã dùng nhưng không
mang tính công cụ như thế. Chẳng hạn trong "Cung
oán ngâm khúc", đã có một giới từ như thế:
Giết nhau bằng cái u sầu độc chưa!
Nhưng đó là trường hợp gần như ngoại lệ.
Quay trở lại trường hợp "anh em " ỏ trên, người
Việt ngày nay nói có dán nhãn rõ ràng "anh của
em ", "anh và em ", "anh hay em ", "rất anh em ", "vẩn
anh em ", "các anh em " và mọi nhập nhằng biến mất.
(4) Cùng với điều đó, những công cụ ngữ pháp
ra đời. Thí dụ mạo từ. Từ "các" chẳng hạn trở thánh
tương tự với từ "les" của Pháp ở điểm nó có thể
đứng trước mọi danh từ và chỉ đứng trước danh từ
mà thôi. Với sự ra đời của "các" như một mạo từ
thực sự, một từ loại mới ra đời là "mạo tù".
(5) Chưa hết. Một ngôn ngữ để trở thành một
công cụ của tư duy suy luận, tức là của tư duy khoa
học cần phải tạo cho mình đủ mọi khớp xương. Các
khớp xương ấy tuy trước đây đã có nhưng rất ít.
Bây giờ xuất hiện hàng ngàn khớp xương, tất cả
486