Page 483 - Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam
P. 483
nhau và có cấu trúc khép kín. Ta có "Đoản ngữ
danh tử" mà người phát hiện đầu tiên lá Emeneau,
rồi được GS. Nguyễn Tài cẩn phát triển. Đoản ngữ
náy gồm 4 yếu tố; (1) Một yếu tố đóng vai mạo tử:
"Những" hay "các"; (2) Một yếu tố đóng vai cái chỉ
trỏ: "cái". (3) Loại từ: "con", (4) Danh từ: "người".
Danh từ Việt Nam sau tiếp xúc ngứ pháp, từ này
chỉ là một biểu hiện cá biệt của đoản ngữ danh từ,
cá biệt ở chỗ các yếu tố 1, 2, thường vắng mặt.
Phần tiêu biểu cho đoản ngữ này là sự có m ặt bắt
buộc của một trong hai yếu tố 3 hay 4, cả hai đều
là danh từ và là hạt nhân của đoản ngữ, hoặc có
m ặt cả hai.
Một khi đoản ngử xuất hiện, bên cạnh đoản ngữ
danh tử, ta có đoản ngữ tính từ với tính tử làm hạt
nhân và một yếu tố đứng trước hay đứng sau để
chỉ trình độ: "rất đẹp, đẹp lắm, đẹp vô cùng, đẹp
nhất, đẹp hết sức...” Đồng thời, có đoản ngữ động
từ, trong đó động từ làm hạt nhân, trước đó có yếu
tố chỉ thời gian "đã, sẽ, đang", chỉ quá trình "vẩn,
còn từng...", yếu tố chỉ dạng bị động khi cần "bị,
được". Sau nó có yếu tố chỉ kết quả của quá trình
mang tính chất thể (aspect): được, lên mất, rồi,
xong, hết...
Lúc này, chứ không phải trước kia, một danh
từ, một tính tử, một động từ Việt Nam dù có đứng
một mình cũng chỉ là biểu hiện cá biệt của cái đoản
ngữ của nó chẳng khác gì một danh từ, một động
tử, hay một tính từ biến tố dù có đứng một mình
cũng chỉ là đại biểu nhất thời của toán bộ cái hệ
485