Page 362 - Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam
P. 362

(Phú  nói,  Phú  bình,  Phú  tì  bá...),  cải  lương  (Xá
        quảng...),  tuồng  (Kiều  dương  thượng...),  chèo  (Phú
        dầu, Lới la...), quan họ (Đường trường chim thước...),
        dân  ca  miền  núi  (các  điệu  xá,  dân  ca  Xê-đăng...),
        các  điệu  hò  (Hò  Huế,  Hò  nhịp  một...).  Có  thể  nói
        không ngoa  đây là  bảo  tàng nghệ  thuật  diễn  xướng
        dân  tộc  được  duy  trì  thiêng  liêng  nhất.

             Nhạc  cụ  thường  dùng  nhất  lá  một  đàn  nguyệt,
        kết hợp với  một bộ gõ (phách,  trống,  thanh la...) với
        sáo,  kèn  bầu...  tạo  nên  một  hòa  âm  phong  phú.

             8.     Vũ  đạo.  Các  nhà  nghiên  cứu  vũ  đạo  thường
        băn  khoăn  về  điểm:  tại  sao  đồng bào  thiểu  số  Việt
        Nam  đều  có  vũ  trong  sinh  hoạt  bình  thường,  mà
        người  Kinh  lại  thiếu?  Nhưng  nếu  gạt  bỏ  cái  màn
        tôn  giáo  thì  thấy  ở  đây  và  ở  các  lễ  hội  vũ  cũng
        phong phú. Dưới đây là những nhận xét của Hát  vãn:

             "Neu  ở  người  Việt,  nói  chung,  hình  thức  múa
        không  phát  triển,  thì  trong  H át  văn,  do  các  sinh
        hoạt  tín  ngưỡng  loại  hình  múa  lại  khá  phát  triển.
        Với  mỗi  loại hình  múa,  có  một  điệu hát khác nhau,
        phù  hợp  với  tính  chất  vá  tiết  tấu  của  loại  múa  đó.
        Ví  dụ:

             "Múa  đao,  kiếm,  chùy,  thường  dùng  điệu  hát
        dồn,  lưu  thủy  (nhịp  ba),  trống  và  thanh  la.
             Múa hèo, dùng điệu lưu thủy, hát bỏ bộ, nhịp một.

             Múa  sư  tử  (giá  cậu)  dùng  trống  sư  tử,  hát  bỏ
        bộ,  nhịp  một  theo  tiếng  trống.

             Múa  võ,  khăn,  thường  dùng  nhạc  lưu  thủy.


        364
   357   358   359   360   361   362   363   364   365   366   367