Page 252 - Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam
P. 252
cô", "họa bát cổ". Kinh nghĩa là lối văn sĩ tử sợ
nhất. Nó chỉ được đưa vào thi cử tử đời Tống đời
Hán, đời Đường không có. Chỉ riêng điều này thôi
cũng thấy bệnh Tống Nho thấm sâu vào trí thức
Việt Nam như thế nào. Sau trường Đệ N hất này,
trên ba phần tư thí sinh đã hỏng, cho nên số còn
lại để vào trường Nhì là ít.
Vào trường Nhì, thường thi phú và thơ. Phú có
tử đời Hán, và ngay tủ thời ấy nó chỉ là một thể
văn để ca ngợi, hoa mĩ tán dương, khoa trương.
Nhưng phú để đi thi, còn câu nệ hơn là phú Đường
luật, tức là có đối và có vần. Đối với cha ông ta,
chỉ là người giỏi phú mới là người hay chữ, giỏi thơ
chỉ mới là người có tái thôi. Sử nhắc đến Nguyễn
Khản, Nguyễn Hữu Chỉnh, Phan Bội Châu là nói
đến cái tài làm phú. Đe giỏi về phú, nhớ sách không
đủ, vì những người đi thi ai chẳng nhớ, vả lại số
sách chẳng có bao nhiêu. Cái khó là dùng các điển
cố sao cho kêu, dùng các chữ sao cho sắc sảo, mới
lạ. Vua chúa cần nhất là những người giỏi ca ngợi,
nên rất trọng về phú. Hết phú, đến một bài thơ
Đường luật tám câu bảy chữ. Chuyện làm thơ chừ
Hán tự thân nó là quá dễ nhưng bát cú Đường luật
trong thi cử lá một chuyện chẳng giống như bát cú
thông thường ta vẫn làm, dù là bằng chữ Hán. Trước
hết, các đề mục chỉ quanh quẩn trong chính sự,
điển cố, vịnh cảnh, vịnh sử, má tất cả đều là chuyện
bên Tàu. Điều này thực tế không khó. Cái khó nhất
khiến người ta hỏng là vần. Nó phải theo Đường
vận tức là phải làm thơ bát cú Đường luật kiểu Đỗ
254