Page 244 - Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam
P. 244
xưa để tìm hướng đi trong hoàn cảnh hiện tại. Khi
đọc các sách viết về văn hóa xưa, trừ Cao Xuân
Huy ra, tôi không thấy cái mà châu Âu gọi là óc
bình luận. Người thì khen khá chiết trung như Trần
Trọng Kim người thì chê khá xô bồ như Phan Khôi,
còn phần lớn chỗ này khen chỗ kia chê, không thấy
chính mục đích mình làm là vì ai. Chỉ có Hồ Chí
Minh là người tách được trong học vấn xưa cái bất
biến dùng được cho thời hiện đại. Nhưng do hoàn
cảnh, Bác không thể tiến hành công tác bình luận
cho triệt để, bởi vì công tác náy tự nó là công việc
triết học phức tạp, đi vào đây sẽ cuốn hết cả cuộc
đời không còn có thì giờ làm cách mạng nừa.
Trước hết, phải thấy khi Việt Nam theo Hán
học, tức là vào năm 1070 lúc xây Văn Miếu, thì
Việt Nam đã tiếp thu văn hóa Tống Nho của Trung
Quốc đương thời theo Tống Nho rồi. Vào đời Trần,
Chu Văn An viết "Tứ Thư thuyết ước”, tức là về cơ
bản đã chấp nhận Tống Nho, vì danh từ "Tứ Thư”
lá sản phẩm của Tống Nho, trước đó không ai nói
đến chuyện tách "Đại Học", "Trung Dung" từ trong
"Lễ K ý” thành hai tác phẩm riêng, cũng không xem
"Mạnh tử" là tác phẩm kinh điển. Mãi cho đến khi
khoa cử chấm dứt năm 1919, cái học của cha ông
ta chỉ thu hẹp trong phạm vi Tống Nho mà thôi.
Dĩ nhiên, Văn hóa Hán sau đó còn thay đổi rất
nhiều, những người Việt Nam, trữ trường hợp đặc
biệt của Lê Quý Đôn, Nguyễn Đức Đạt và các nhà
nho sau khi Pháp xâm lược đã tự mình tách khỏi
246