Page 240 - Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam
P. 240
Nó đã cấp cho đất nước một nền học vấn rất
phổ cập, đến mức so với các nước châu Àu trước
Cách mạng tư sản thì tỉ lệ người biết chữ ở Việt
Nam vẫn đông hơn. Nó tạo nên một đất nước yêu
quý văn học, hết sức ham học, và có thói quen dành
một số năm trong cuộc đời vào việc học, điều rất
cần thiết để bước vào nền văn minh của trí tuệ. Đã
thế, nếu như nói chung trong mọi nước chi phí về
giáo dục là hết sức to lớn, thường là không thấp
hơn chi phí quân sự, thì ở Việt Nam ngáy xưa, nó
gần như không tốn kém gì hết. Nó là tự do, tự
nguyện hoàn toàn.
Việc học tập là hoàn toàn tự do, do gia đình lo
liệu không liên quan tới nhà nước. Một gia đình có
ăn, tức là không đến nỗi đứt bữa, không lo điều gì
hơn là cấp cho con dăm ba chữ, để ít nhất cũng có
thể khấn ông bà, tổ tiên bằng chữ Hán (vì khấn
Nôm thì ông bà không nghe, và là một điều sỉ nhục
gia phong), đọc được gia phả, biết được cách đối xử
có lễ độ với họ háng. Neu người con khá hơn, anh
ta có thể làm một chức vụ trong láng xã; khá hơn
nữa đi thi nếu đỗ, có thể làm quan, còn không đỗ
có thể làm thầy cúng, thầy thuốc, thầy địa lí, và
thầy học. Một nhà có máu m ặt như vậy thế nào
cũng mời một thầy đồ về nhà mình, người ta nói
là "nuôi thầy", tức là cho thầy ăn uống. Anh ta thế
nào cũng hợp tác với một số nhà chung quanh "gửi
con đến học”. Đó đã là mầm mong của một trường
tư. Những người khác cũng chẳng m ất phí tổn bao
nhiêu: một số tiền nhỏ bé vừa túi tiền của các gia
242