Page 237 - Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam
P. 237
Năm 1070, Lê Thánh Tông sai dựng Văn Miếu ở
phía Nam hoàng thành và cho Hoàng Thái Tử đến
học. Đặc biệt Văn Miếu có tượng Chu Công, Khổng
tử và 72 người học trò giỏi của Khổng tử. Như vậy
là trong quan niệm vua Lý, Chu Công là người sáng
lập Nho học, chứ không phải Khổng tử. Sau đó năm
1076, lập trường Quốc tử giám, để đào tạo nhân
tái; năm 1086, mở khoa thi chọn người vào Hàn
lâm viện. Viện Hàn lâm Trung Quốc và Việt Nam
xưa không có nghĩa như chữ Academy của châu Âu,
mà chỉ có mục đích là một cơ quan viết các công
văn, các chiếu, biểu, chế của nhà vua thôi. Một nước
phương Đông rất coi trọng cách diễn đạt bằng ngôn
ngữ. Các công văn không phải nhất loạt theo những
khuôn mẫu có sẵn như ở phương Tây. Trái lại, mỗi
công văn phải thích hợp với từng đối tượng theo
những phong cách đã định sẵn, trong đó có hình
thức chế, chiếu, biểu, đều phải có quy tắc riêng.
Người ta rất thích lối phú, lối tứ lục, văn sách, trong
đó thể văn biền ngẫu, tức lá dựa trên câu đối phú
là chủ đạo. Cho nên nếu không là người hay chữ
thì không thể làm thư ký, tức là vào Viện Hán lâm
được. Nho học lúc này còn bó hẹp trong tầng lớp
quý tộc vá quan lại. Khoa thi đầu tiên tổ chức vào
năm 1075, lấy 5 người. Đời Lí còn tô chức 5 khoa
thi nữa. Công trình "Các nhà khoa bảng Việt Nam
(1075 - 1919)" (2) cho ta lí lịch 11 người.
Đen đời Trần, việc giáo dục đã chu đáo hơn.
Ngoái phép thi Tam trường của chế độ trước nhá
Trần mở khoa thi Tam giáo (Nho, Phật, Lão) để
239