Page 241 - Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam
P. 241
đình nông dân nghèo chung quanh gửi con đến học
cũng đủ để cho thầy mỗi năm có thêm một bộ áo
quần, lo cơm ăn áo mặc cho cậu con đi theo, và gần
Tet đưa được một ít tiền về nhà cho vợ. Thầy học
có thể kiếm thêm tiền trong việc viết câu đối, làm
văn tế bởi vì ngày xưa, một nhà có ăn thế nào cũng
phải có câu đối riêng treo ở nhà thờ, khi có người
chết phải có văn tế đọc mới hợp với lễ.
Ai dạy? Muốn có thầy đồ, ít nhất phải là khóa
sinh, tức là một người có đủ tư cách đi thi, đã học
hết chương trình để đi thi, và được những học quan
ở phủ huyện xác nhận qua các cuộc thi thử. Tùy
theo chỗ trong kì thi hương anh ta đã đỗ được kì
thi thứ nhất, thứ hai, hay thứ ba thì anh khóa sẽ
được gọi là khóa sinh trường nhất, trường nhì, trường
ba. Nếu đỗ tú tài thì gọi là ông tú, địa vị cao hơn.
Trước năm 1945, trong làng tôi vẫn có nhứng trường
tư gia như vậy. Khi một thầy học đã là tú tài, cử
nhân hay tiến sĩ vì có rất nhiều người hoặc không
muốn làm quan, hoặc từ quan về làng dạy học, lúc
đó học sinh thường khá đông, có vái chục người,
thậm chí hàng trăm. Lúc đó, ta có một trường vá
sẽ có người học trò được bầu là trưởng tràng để
trông nom trật tự. Có những trường học có uy tín
trong lịch sử văn hóa đất nước do những bậc đại
nho cầm đầu. Đời Trần có trường của Chu Văn An,
đòi Mạc có trường của Nguyễn Bỉnh Khiêm, các
trường của Lê Quý Đôn, Nguyễn Thiếp đời Lê, của
Nguyễn Đức Đạt, Võ Trường Toản, Nhữ Bá Sĩ đời
243