Page 236 - Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam
P. 236

Việt Nam, thư mục đề yếu" có nói đến hai hòa thượng
       Việt  Nam  là  Đạo  Cao  và  Pháp  Minh  sống  vào  thế
       kỉ  thứ  V  viết  thư  tranh  luận  về  đạo  Phật  với  Lý
       Miễu,  thứ  sử  Giao  Châu,  những  tác  phẩm  của  Đại
       Thừa  Đăng  (thế  kỷ  thứ  VI),  Thanh  Biện  (thế  kỷ
       thứ VII).  Tôi  đã  được đọc những bài này.  Nhân  dân
       học chữ Hán ở các chùa,  chứ không phải các trường
       do  người  Trung  Quốc  dựng  lên  và  các  chùa  là  các
       trung  tâm  văn  hóa.  Ai  muốn  đi  thi  thì  phải  sang
       Trung  Quốc  như  Trương  Trọng  (thế  kỷ  thứ  nhất),
       Lý  Cầm,  Lý  Tiến  đều  phải  làm  thế.  Khương  Công
       Phụ  đã  đỗ  đầu  tiến  sĩ  ở  Trung  Quốc  với  bài  phú
       còn  thấy  trong  "Toàn  Đường  văn".
           Như  vậy  là  dưới  thời  Bắc  thuộc,  theo  sử  sách,
       đã  có  một  ít  người  giỏi  chữ  Hán,  nhưng  vẫn  chưa
       có  chê  độ  học  tập  chđ  Hán  quan  trọng  ngoải  các
       chùa.  Đời  Đường,  Vô  Ngại  Thượng  Nhân,  Phụng
       Đình  pháp  sư,  Duy  Giám  pháp  sư  đã  từng  xướng
       họa  với  những  nhá  thơ  nổi  tiếng  là  Thẩm  Thuyên
       Kì và Trương Tịch. Tình hình vẫn còn như vậy trước
       thế  kỉ  XI.  Những  người  tiêu  biểu  cho  văn  hóa  vẫn
       là  các  nhà  sư.  Hai  nhà  sư  La  Thuận  và  Khuông
       Việt  phải  đón  tiếp  và  xướng  họa  vói  sứ  giả  Tống
       trong  thời  Lê  Đại  Hành.
            1.  Việc  học  chữ  Hán  có  quy  mô  chỉ  bắt  đầu
       với  thời  độc  lập.  Nhu  cầú  tiếp  thu  văn  hóa  Hán  ở
       Việt Nam cũng như ở Triều Tiên không phải do bạo
       lực,  mà  do  nhu  cầu  phải  đua  tài  với  Trung  Quốc
       để  củng cố  độc  lập  bằng  văn  hóa.  Tuy  so  với  Triều
       Tiên, Việt Nam làm có muộn hơn và không sâu bằng.


       238
   231   232   233   234   235   236   237   238   239   240   241