Page 243 - Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam
P. 243

"Mạnh  tử",  "Đại học",  "Trung Dung".  Học  xong  "Tứ
   thư" mới  bắt  đầu  làm  câu  đối.
        Kỹ  thuật  làm  câu  đối  chiếm  toàn  bộ  thời  gian
   dạy  cái  phần  gọi  là  ngữ  pháp.  Tôi  đã  học  theo  lối
   học  náy  với  cha  tôi,  nhưng  dĩ  nhiên  cha  tôi  không
   giảng  cho  tôi  theo  lối học vẹt.  Cái  điều  làm  tôi  băn
   khoăn,  đó  là  tại  sao  người  ta  không  dạy  cách  đặt
   câu,  ngữ  pháp,  nghĩa  các  tủ,  chỉ  dạy  cách  làm  câu
   đối  thôi,  mà  vẫn  tạo  nên  được  những  ông  tiến  sĩ,
   văn  chương  lưu  loát?  Đầu  tiên  đối  một  chữ,  chẳng
   hạn  "Trời" thì  đối  với  "Đất",  tức  lá  dùng  danh  từ
   đối với  danh từ, về động từ, tính từ,  từ láy âm cũng
   thế.  Sau  đến  đối  hai  chữ,  rồi  đối  bốn  chữ.  Khi  đã
   đối  quen bốn  chữ,  tự nhiên học sinh  nắm  được ngữ
   pháp.  Tiếp  theo  đó,  học  "Ngũ Kinh",  bắt  đầu  bằng
    "Kinh  Thi",  "Kinh Lễ"',  "Xuân  Thu",  "Kinh  Thư", kết
   thúc bằng  "Kinh  D ị c h Trong lúc này,  học làm bài.
   Đầu  tiên  học  làm  một  đoạn,  sau  đến  hai  đoạn.  Để
   quen  với  cách  làm  bài  cũng không giải  thích  gì  má
   chỉ  học những bải văn mẫu.  Có những bài văn mẫu
   thuộc  đủ  mọi  loại,  phú,  văn  sách,  kinh  nghĩa,  tứ
   lục...  Cứ  theo  mẫu  mà  viết.  Đồng thời,  học  Bắc  sử,
   tức là sử Trung Quốc. Tác phẩm phải học lá  "Thông
   giám  cương mục" của  Chu  Hi  từ  đầu  đến  hết  thời
   Bắc  Tống,  tức  lả  đến  năm  1121.  Nói  khác  đi,  để  đi
   thi,  cha  ông ta  chỉ  học  Bắc  sử,  mà  Bắc  sử cũng chỉ
   học  cho  đến  năm  1121.  Phần  sau  đó  không  nằm
   trong  chương  trình  thi  cử.

        Như  vậy,  có  những  điều  rất  lạ  má  chúng  ta
   phải  lý giải nếu muốn có một nhận thức về văn hóa



                                                          245
   238   239   240   241   242   243   244   245   246   247   248