Page 218 - Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam
P. 218

Tôi  nói  đến  hai  khái  niệm  chủ  chốt  của  Trung
       Quốc là  "Trung" và  "Hiếu".  Chữ  'Trung'" của Trung
       Quốc chỉ có nghĩa là hi sinh, tận tụy, chết cho người
       nuôi mình.  Nó không có  một hàm nghĩa nào ẩn nấp
       đằng  sau.  Nho  giáo  Trung  Quốc  chủ  trương  "trung
       quân",  tức  trung  với  vua.  Cơ  sở  của  nó  là  sự  đối
       xử, như Hàn Tín nói với Khoái Triệt:  "Ăn cơm người
       ta  thì  làm  việc  cho  người  ta,  mặc  áo  người  ta  thì
       chết cho người ta".  Đó lá tình cảm giữa cá nhân với
       cá nhân. Hai nhân vật điển hình nhất của chữ trung
       nảy  lá  Ngũ  Tử  Tư  và  Dự  Nhượng.  Nhưng  Ngũ  Tử
       Tư  là  người  nước  Sở.  Vua  Sở  giết  cha  anh  ta,  anh
       ta  sang  Ngô  phục  vụ  Phù  Sai  có  công  đem  quân
       Ngô  đánh  tan  quân  Sở,  muốn  tiêu  diệt  chính  nước
       của mình, đảo mả vua Sở lên,  lấy roi quất vào thây.
       Anh  ta hết  lòng khuyên  vua  Ngô  Phủ  Sai  tiêu  diệt
       nước Việt không  được,  bị  Phù  Sai  giết.  Dự  Nhượng
       trước đó đã thờ hai ông vua,  nhưng khi hai  ông vua
       này  chết,  anh  ta  chẳng  lo  báo  thủ,  vì  hai  ông  vua
       này đãi anh ta vào bậc tầm thường.  Còn Trí  Bá  đãi
       anh  ta  vào  bậc  quốc  sĩ  nên  khi  Trí  Bá  bị  giết,  anh
       ta  hi  sinh  để  trả  thù  cho  Trí  Bá.
            Chữ  trung Việt  Nam  thì  khác.  Trung là  trung
       với  Tổ  quốc Việt  Nam,  không  phải  trung  với  người
       nuôi  mình.  Ai  có  khả  năng  cứu  nước,  cứu  dân,  thì
       dù  người  đó  không  hề  nuôi  mình,  mình  vẫn  trung,
       hi  sinh  cho  người  đó.  Nguyễn  Trãi  là  cháu  ngoại
       của  Trần  Nguyên  Đán  là  quan  to  nhà  Hồ.  Nhưng
       Nguyễn  Trãi  không  hi  sinh  cho  nhà  Trần  và  nhà
       Hồ  mà  lại  cùng  Trần  Nguyên  Hãn  cháu  nội  Trần




       220
   213   214   215   216   217   218   219   220   221   222   223