Page 170 - Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam
P. 170
dồi nhân cách, phát huy nó để lôi cuốn những người
khác, dù có chịu nghèo khổ cũng không đổi vì ý
thức giá trị của nó, chứ không phải xem cái cá nhân
mình là hư hỏng mà vứt bỏ nó. Đi con đường chữ
nghĩa thì "Quá tin sách không bằng không có sách"
như lời Mạnh tử nói.
Ta biết ông học lễ, học nhạc rất công phu, hiểu
về bắn cung, điều khiển ngựa, ông lá người đầu
tiên mở trường dạy tư cho con em quý tộc, chuyển
cái học sang đạo đức, chính trị, vả cấp cho nó tính
nhất quán nhằm đào tạo con người cai trị cốt đem
đến sự hòa mục trong xã hội, chứ không phải nhằm
mục đích quân sự hay bói toán.
Một triết học là phản ánh cụ thể những nguyện
vọng của một giai đoạn cụ thể. Do đó, tất yếu triết
học nào cũng không tránh khỏi những giới hạn lịch
sử, cho nên bất cứ triết học nào cũng trải qua những
thay đổi hết sức quan trọng trong một hoàn cảnh
xã hội khác, điều mà tôi gọi là độ khúc xạ. Cái
phần có giá trị của một triết học không ở nội dung
của những khái niệm nhà triết học nêu lên, dù đây
là triết học của A-ri-xtôt, của Hê-ghen hay của Khổng
tử, bởi vì khi thời đại khác đi nội dung tất nhiên
phải thay đổi: con người để đi cho nhanh thì phải
có xe. Đó là điều không thay đổi. Còn đi xe ngựa,
đi thuyền, đi táu hỏa, máy bay, hay đi tên lửa vũ
trụ, mỗi thời một khác. Chính Khổng tử cũng chủ
trương như thế khi nêu lên chữ "Thời" tức là mọi
hành động đều phải thích hợp với hoán cảnh cụ thể
của nó: "Vô khả, vô bất khả" (Không có cái gì bao
172