Page 114 - Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam
P. 114
nghị dịch nó là "tồn tại" (être). Nhưng gọi thế thì
sẽ lẫn lộn với "cái hữu". Đe cho dễ hiểu hơn, có thể
gọi nó là một kiểu tồn tại. Đó là sự tồn tại của màu
trắng trong chữ, của cái trống không trong tranh,
của cái im lặng trong nhạc, của cái không lời trong
thơ. Nghệ sĩ phải lảm thế náo cho "cái vồ" ấy xuất
hiện và biểu lộ ngữ nghĩa của nó. Nghệ thuật này
chủ trương tạo nên một quan hệ giữa "cái vô" và
"cái hữu" sao cho người xem, người nghe, qua mối
quan hệ giữa hai cái này hiểu được rằng "cái hữu"
chỉ là một khoảnh khắc, một biểu hiện cá biệt của
"cái vô” mà thôi.
Để làm thế, có nhiều thao tác cực kỳ rắc rối,
cực kỳ xa lạ với tâm thức làng xã của cha ông chúng
ta. Chỉ nêu một thí dụ trong thư pháp. Trong lúc
viết chữ thảo, người ta dùng rất ít mực để ngay
trong nét bút lẽ ra phải đậm, lại có chỗ bị rách,
nhằm nêu "cái vô". Cách này được gọi là "Phi bạch"
tức là "cái trắng bay". Nói khác đi, viết mực đen
trên giấy trắng thì cái trắng phải bay mới là tay
danh bút. Viết lối rồng bay phượng múa không phải
là danh bút, bởi vì lúc đó cái đen bay. Vào những
năm 70, nghe nói cụ Trịnh Tường ở 22 cầu Gỗ là
một người Hoa thạo về thư pháp, tôi có xin yết kiến
và được cụ cho xem 300 bản chữ khác nhau mà cụ
đã dành cả đời, không tiếc tiền của, công sức để
sưu tập. Ân tượng của tôi sau khi gặp là sợ. Cụ
Trịnh trong con mắt người Hà Nội chỉ là một thương
nhân bình thường. Nhưng cụ là người Hoa nên đã
116