Page 382 - AllbertEstens
P. 382
gian và không gian trở thành tương đối, điều này khác hẳn với
các khái niệm quen thuộc. Hệ quả triết học: Thời gian mất tính
lý tưởng của nó. Hệ quả thực tế: Những đồng hồ di chuyển
nhanh chạy chậm đi. Nếu như ta còn tin vào thời gian phổ quát
thì ta có thể nói rằng quá khứ không còn tồn tại, tương lai
không còn nữa, và như vậy chỉ có hiện tại là tồn tại. Thuyết
tương đốỉ đã vô hiệu hóa một câu nói như sau: Các biến cố là
trong tương lai đối vối một người quan sát sẽ là trong quá khứ
đối vối người quan sát khác và là trong hiện tại đốỉ với người
quan sát thứ ba. Như vậy, tiếp tục cho rằng chỉ những biến cố
hiện tại là tồn tại, ta buộc phải nghĩ rằng các biến cố xa xôi
nhưng thực sự, đúng vậy, và như vậy tồn tại, không còn tồn tại
nữa, hoặc chưa, đối với một người khác nào đó di chuyển đốỉ với
chúng ta. Trong một bối cảnh như vậy thì địa vị riêng của thời
gian sẽ trở thành như thế nào ?
Không nói đến lý thuyết tương đốỉ rộng đã chọn một
không-thời gian cong mà trong lòng nó, không gian, thòi gian và
cả vật chất nữa có những tình tiết trộn lẫn. Mật độ của vật chất
chẳng hạn ảnh hưởng đến tốc độ trôi chảy của thời gian. Ngoài
ra, trong VÜ trụ học, người ta nói đến một thời gian v ũ trụ học có
mũi tên [có chiều], tiện lợi để kể về sự tiến hóa của Vủ trụ của
chúng ta, nhưng ta không thể nâng lên thành tuyệt đối (1>: Nó
không phải là một thực tại tự nó đã tồn tại từ trước đốỉ với mọi
sự nhận thức và trong đó những nhận biết của chúng ta chỉ đơn
giản là đến cư ngụ.
Cuốỉ cùng, còn lại trường hợp - rất tế nhị - cơ học lượng tử.
Đe cho đơn giản, ta sẽ chỉ xét phương trình Schrödinger trong
(,) Vũ trụ học dựa vào lý thuyết tương đối rộng xem mọi hệ quy chiếu không-thời gian
là tương đưcmg^ Một số hệ trong số các hệ quy chiếu đó có giá trị thực hành đối với
việc mô tả các sự vật.
9 • •
380