Page 354 - AllbertEstens
P. 354
trục của hệ tọa độ: V = ai + bj + ck, a, b, c là các thành phần của
V):
V = X a j u j ’
j '
trong đó aj là tích vô hướng của Uj và \ị/:
a j = (U j, Vị/). ( 6 )
Các toán tử trong cơ học lượng tử, do được gắn vối các
quan sát được và do đó các giá trị riêng tương ứng của nó phải
là các giá trị thực, cần phải thoả mãn điểu kiện sau đây:
(vị/, Âvị/) = (Âvị/, Vị/), (7 )
hay dưới dạng quen thuộc hơn:
/ 1|/*(ÂI|/) dV = / (Âvj/)*v|/ dV. (8)
Các toán tử có những tính chất (cần thiết) như vậy được
gọi là các toán tử Hermite.
Như vậy, cho đến đây chúng ta đã có được một sô" khái
niệm toán học tối thiểu cần thiết để có thể phát biểu về hình
thức luận tổng quát của cơ học lượng tử. Trong sự phát biểu
này, các vật thể toán học thuần túy (vectơ, toán tử) đã được sử
dụng để chỉ các vật thể vật lý (trạng thái, quan sát được) và vì
vậy chúng thường được gán thêm những bổ ngữ có tính chất vật
lý: thay cho "vectơ", ta bắt đầu nói "vectơ trạng thái", "hàm
trạng thái" hay "hàm sóng”; thay cho "vectơ riêng", ta nói "hàm
riêng”; và thay cho "toán tử", ta có thể nói "toán tử quan sát
được" hay "quan sát được".
Để có thể thấy rõ các đặc điểm của lý thuyết mới mà từ đó
đã nẩy sinh những tranh cãi về cách hiểu (giải thích) nó, trưóc
khi trình bày hình thức luận, chúng ta hãy nhắc lại một cách
khái quát sự trình bày lý thuyết cổ điển (Messiah [2], tr. 3, gọi
là "học thuyết cổ điển") mà nhìn chung các nhà vật lý cho đến
352