Page 351 - AllbertEstens
P. 351

mà trên cơ sỏ đó có thể phát triển toàn bộ cơ học lượng tử.





                                                                                       Ta lưu ý rằng việc đưa ra hệ tiên đề này hay hệ  tiên để




                                                                      khác của  cơ  học  lượng tử  không có  nghĩa  là  người  ta  đã  thực



                                                                      hiện được sự tiên đề hoá cơ học lượng tử theo nghĩa chặt chẽ của




                                                                      từ này.  Sự tiên  để hoá cơ học lượng tử chỉ  được bắt  đầu trong



                                                                      công trình "The logic of quantum mechanics'' (Logic của cơ học




                                                                      lượng tử) của B. Birkhoff và J. von Neumann năm 1936. Nhưng



                                                                      công trình này đã  ít  được các nhà vật lý lý thuyết lúc bấy giò




                                                                      chú ý vì khi đó họ còn đang rất bận bịu về việc ứng dụng cơ học




                                                                      lượng tử trong các lĩnh vực nguyên tử, phân tử, hạt nhân, chất



                                                                      rắn,  hạt cơ bản đang phát triển rất mạnh; và chỉ hơn  20 năm



                                                                       sau, bắt đầu từ D. Finkeistein (1957), nó mới được hiểu là sự mở




                                                                       đầu của một hướng nghiên cứu quan trọng.





                                                                                       2'  Như  đã  nói  ở  trên,  ngôn  ngữ  toán  học  của  hình  thức




                                                                       luận tổng  quát  của  cơ học lượng tử là  đại  sô" tuyến  tính  và  lý



                                                                       thuyết không gian Hilbert. Việc sử dụng ngôn ngữ này thể hiện




                                                                       sự chấp nhận một mệnh đề cơ bản của lý thuyết gọi là nguyên



                                                                       lý vể  sự chổng  chập  các  trạng thái  động  lực,  thường gọi




                                                                       ngắn  gọn  là  nguyên  lý  chồng  chập,  theo  đó các  trạng  thái



                                                                      động lực  khả  dĩ của  một  hệ  lượng  tử đã  cho  có  tính  chất đặc




                                                                       trứng của  mọi  sóng nói  chung là  có  thể chồng chập  được  một



                                                                      cách  tuyến  tính  [2],  Phù  hợp  vối  nguyên  lý  này,  ta  có  thể cho




                                                                       gắn vói một hệ như vậy một không gian vectơ (tuyến tính) nào



                                                                       đó  (sẽ  xác  định)  sao  cho  mỗi  trạng thái  động lực  của  hệ  được




                                                                      biểu diễn bằng một vectơ của không gian ấy. Không gian tuyến



                                                                       tính này đã được giả định là không gian Hilbert vì nó có những




                                                                       tính  chất  cần  phải  có  của  hình  thức  luận  như  sẽ  nói  ở  dưối.




                                                                       Cũng vậy, gắn với mỗi biến 4ộng lực (đại lượng vật lý quan sát



                                                                       được) hay quan sát được (observable)  -  những thực thể, ít nhất




                                                                      về nguyên tắc, là có thể đo được trên hệ bằng một dụng cụ thích



                                                                      hợp và có thể tái lập được - là một toán tử tuyến tính của không




                                                                       gian ấy.










                                                                                                                                                                                                                                                            349
   346   347   348   349   350   351   352   353   354   355   356