Page 346 - AllbertEstens
P. 346

dòng [suy luận] đã nêu trong công trình bằng cách làm việc với



                                                                                 trường hợp các lượng tử số  lớn.  Vào lúc đó,  tôi đang chờ đợi có


                                                                                 một  loại  liền  quan  nào  đó  giữa  cơ  học  mới  và  động  lực  học



                                                                                 Hamilton  (vỉ  động  lực  học  Hamilton  được  sử dụng  rất  nhiều



                                                                                 trong các nghiên cứu phát triển lý thuyết Bohr của Sommerfeld)



                                                                                 và dường như đối với tôi mối liên quan đó sẽ bộc lộ tốt nhất với



                                                                                 các lượng tử số  lớn".




                                                                                                Không lâu  sau khi hình thành cơ học ma trận, lại có một



                                                                                 cơ học  mới  xuất hiện -  cơ học  sóng do  Erwin  Schrödinger,  một



                                                                                 nhà  vật  lý  người  Áo  lúc  đó  đang  giảng  dạy  ỏ  Đại  học  Zurich


                                                                                 (Thụy Sĩ), xây dựng (xem Phụ lục A3). Công trình mang tên "Vế



                                                                                 sự lượng tử hoá như là một bài toán giá trị riêng" gồm bốn bài



                                                                                 công bô' trên tạp ch í"Annalen der Physik" trong cùng năm 1926.



                                                                                 Không lâu sau đó, Schrödinger đã chứng minh rằng cơ học sóng



                                                                                 của ông và cơ học ma  trận của  Heisenberg là hoàn toàn tương


                                                                                 đương  mà  ngày  nay  chúng ta thường gọi chung là "cơ học lượng



                                                                                 tử", cái tên này do M. Bom đưa ra từ năm 1924 như đã nói ở trên.





                                                                                                Một sự kiện hết sức quan trọng khác là vào tháng Ba năm


                                                                                  1927,  trên  tạp chí "Zeitschrift für Physik",  Heisenberg đã công



                                                                                 bố công  trình  "Vế nội  dung  trực  quan  của động học  và cơ học



                                                                                 lượng tử' trong đó có hệ thức b ất địn h  Apx.Ax ~ h  ["vị trí [của



                                                                                 hạt] được biết càng chính xác thì xung lượng được xác định các



                                                                                 kém chính xác,  và ngược lại"- theo lòi Heisenberg]. Hệ thức này


                                                                                 thường  được  minh  hoạ  bằng  thí  nghiệm  tưởng tượng về chiếc



                                                                                 kính hiển vi Bohr-Heisenberg dùng để xác định xung lượng và vị



                                                                                 trí của hạt được Heisenberg trình bày lần đầu tiên trong các bài



                                                                                 giảng ở Đại học Chicago đầu năm  1929. Thí nghiệm chỉ ra rằng



                                                                                 trong vật  lý vi  mô,  một phép  đo  luôn  luôn'làm  nhiễu  loạn hệ;


                                                                                  nếu  ta  cố đo vị  trí của  một hạt sao cho thật chính xác, ta sẽ làm



                                                                                 nhiễu nó theo một cách nào đó khiến vị trí của nó sẽ là rất bất đinh.





                                                                                                 Nhiều tác giả đã bàn về ý nghĩa của các hệ thức bất định.








                                                                                  344
   341   342   343   344   345   346   347   348   349   350   351