Page 353 - AllbertEstens
P. 353
Cách tôt nhất để làm việc này là đưa ra các vật thể toán học gọi
là toán tử (thuộc một lóại nào đó có những tính chất cần thiết để
xây dựng hình thức luận của cơ học lượng tử) cho phép biến đổi
một vectơ thành một vectơ khác của không gian (sự ánh xạ của
không gian lên chính nó).
Nói một cách không chặt chẽ, toán tử, ký hiệu là Â (có thể
in đậm và bỏ mũ: A, cũng có thể bỏ mũ mà không cần in đậm:
A), là một vật thể toán học khi tác dụng lên một vectơ bất kỳ Vị/
sẽ chuyển nó thành một vectơ khác, ộ:
<ị> = ÂiỊ/. (3)
Thí dụ Â = X , khi đó <Ị> chỉ đơn giản là kết quả thu được
bằng cách nhân Vị/ với x; nếu  = d/dx, <Ị> sẽ là kết quả khi lấy đạo
hàm Vị/ theo X .
Thuộc về một toán tử Â, có thể xẩy ra trường hợp có một
vectơ V (hoặc một tập hợp vectơ Uj) được xác định bằng phương
trình sau đây:
Âiụ — av|/ hay Âuj = ajUj. (4)
Khi đó VỊ/ (hay các vectơ U j) được gọi là (các) vectơ riêng của
toán tử Â và a (hay các giá trị aj) là (các) giá trị riêng tương
ứng.
Một thí dụ là phương trình Schrödinger trạng thái dừng,
ở đây <Ị> chỉ tập hợp các vectơ riêng (U j) của toán tử
Hamintôniên (toán tử năng lượng) H, còn E chỉ tập hợp các giá
trị riêng tương ứng (EJ - các mức năng lượng của hệ được mô tả
bằng H.
Vì các vectơ riêng của một toán tử tạo thành một tập hợp
đủ cho nên ta có thể khai triển một vectơ bất kỳ Vị/ theo các vectơ
riêng như sau (trong không gian vectơ ba chiều, đó là việc viết
một vectơ bất kỳ V theo các vectơ đơn vị cơ sở i, j, k trên các
351