Page 181 - AllbertEstens
P. 181
Đương nhiên trong một trường hợp như trường hợp vừa xét,
không có vấn đề về một nhiễu loạn cơ học của hệ được khảo sát
• 9 m • 9
trong giai đoạn quyết định (critical) cuối cùng của quá trình đo.
Nhưng ngay ở giai đoạn này, về cơ bản có vấn để về ảnh hưỏng
đến chính các điêu kiện xác định các loại tiên đoán khả dĩ vể
diễn biên tương lai của hệ. Vì các điều kiện này tạo nên một yếu
tô tự tại của bất kỳ sự mô tả hiện tượng nào mà từ "thực tại vật
lý" có thể gán cho nó một cách thích hợp, chúng tôi thấy rằng
lập luận của các tác giả kể trên không xác nhận được (justify)
kết luận của họ nói rằng sự mô tả cơ học lượng tử, như đã thấy
từ sự thảo luận ỏ trên, có thể được đặc trưng như là việc sử
dụng hợp lý tất cả các khả năng giải thích không mập mờ về các
phép đo tương hợp với tương tác hữu hạn và không thể kiểm
soát được giữa các vật thể và các dụng cụ đo trong lĩnh vực lý
thuyết lượng tử. Thật vậy, chỉ với hai cách thí nghiệm nào đó
cho phép định nghĩa không mập mờ các đại lượng vật lý bổ sung
nhau loại trừ lẫn nhau, thì mới có chỗ đứng cho các định luật
vật lý mối mà sự cùng tồn tại của nó mối nhìn có thể như là
không thể dung hòa được với các nguyên lý cơ sở của khoa học.
Chính là trong tình trạng hoàn toàn mối đó vể mô tả các hiện
tượng vật lý mà khái niệm tính bổ sung đã được sử dụng để xác
định (the notion of complementarity aims at characterizing -
bản tiếng Pháp: la notion de complémentarité cherche à
préciser)."
Cuộc tranh cãi có tính chất triết học giữa Bohr và
Einstein gần 30 nám sau đã được viết thành một phương trình
toán học (bất đẳng thức Bell) và gần 20 năm sau nữa đã được
một nhóm nghiên cứu ở Viện Quang học ở Orsay (Pháp) kiểm
tra bằng thực nghiệm. Nghịch lý EPR từ đó đã có một ý nghĩa
mói vượt ra ngoài mục đích tranh luận ban đầu. Đó là tính phi
cục bộ của thế giới lượng tử hiện đang được nghiên cứụ rất
mạnh mẽ do triển vọng hết sức to lớn của nó trong xử lý và
179