Page 179 - AllbertEstens
P. 179
ĩủa hạt kia dựa trên sự bảo toàn xung lượng của hệ mà không
ĩần phải tiến hành một phép đo nào, điều trái với lý thuyết
.ượng tử theo cách giải thích của Bohr.
Một kiểu đơn giản của sơ đồ trên được nhiểu tác giả sử
dụng đã được Bohm đưa ra năm 1950 [19]. Trong sơ đồ kiểu
này, người ta xét giá trị đo các thành phần của spin theo hai
hưống Aị và A2 của hai hạt chuyển động theo những hưóng
ngược nhau. Các hạt được giả định là ỏ trong một trạng thái đơn
(singlet), khi đó các xác suất chỉ phụ thuộc góc (Alf À2). Theo lý
thuyết lượng tử, nếu góc này bằng 0 và nếu ta đo được Sx = +1/2
là thành phần spin của hạt 1 trên trục vuông góc với phương lan
truyền thì giá trị S2 — -1/2 là thành phần spin của hạt 2 trên
cùng trục đó sẽ thu được một cách chắc chắn mà không cần
phải tiến hành phép đo. Thật vậy, trong trường hợp này, hai giá
trị là tương quan hoàn toàn, chúng nhất thiết phải bằng nhau
và ngược chiều. Như vậy một phép đo đốỉ với hạt 1 sẽ cho ta một
yếu tố thực tại của hạt 2 mà không phải đo nó. Mà lý thuyết
lượng tử (như Bohr giải thích) thì không cho phép ta nói một
điểu gì về một hệ chừng nào mà ta chưa đo nó. Sự trái ngược
này là chứng cớ về sự không đẩy đủ của cơ học lượng tử trong
việc mô tả thực tại. Kết luận này, tuy không được các tác giả của
nghịch lý nêu rõ, có nghĩa là phải có chỗ cho những tham sô' nào đó
còn chưa biết cần được xét đến để có một sự mô tả đầy đủ vê thê giói
nguyên tử - các tham số ẩn.
Trả lời các tác giả EPR, trong một bài báo công bô' vài
tháng sau đó trên tạp chí "Physical Review" (tập 48 năm 1935
trang 696), Bohr đã nhấn mạnh rằng đo cần phải được hiểu là
bao gồm cả hệ vi mô cũng như toàn bộ thiết bị đo.
Ta hãy đọc một số’ đoạn trong bài báo này mà Bohr đã
177