Page 184 - AllbertEstens
P. 184
đầu tiên là David Bohm, một nhà vật lý người Mỹ đã dời khỏi
nước này đên Đại học São Paưlo (Braxin) để tránh sự khủng
bô" của chủ nghĩa McCarthy, sau đó ông cư trú ỏ Anh cho đến
cuối đời.
IV. NHỮNG CÁCH GIẢI THÍCH THAY THẾ
Thử nghiệm đầu tiên thay thế cách giải thích chính thống
của cơ học lượng tử đã được David Bohm đưa ra trong một công
trình năm 1952. Cách giải thích này được gọi là cách giải thích
nhấn quả, về sau gọi là cách giải thích bản thể', và còn được gọi
là lý th u y ết de Brogỉie-Bohm vì nó có liên quan với ý tưỏng
về sóng lái (onde-pilote) được de Broglie đưa ra từ Hội nghị
Solvay năm 1927 (ý tưởng này đã bị Pauli bác bỏ và de Broglie
đã chịu thua nhưng sau khi Bohm đưa ra cách giải thích nhân
quả, ông lại quay về với nó, xem Phụ lục A5).
Trong cách giải thích của Bohm, sử dụng cách phát biểu
thủy động lực học do E. Madelung đưa ra từ năm 1926, phương
trình Schrödinger được chuyển thành phương trình chuyển
động có dạng như trong vật lý cổ điển nhưng thêm vào đó còn có
một số hạng đặc biệt gọi là thếlượng tử:
ọ - ft2 V2PỒ/2
" 2 m P Ỉ ' 2 ’
- S
trong đó p0 = R2 (hàm sóng đã được viết dưối dạng: V ị / = Re* , R
là biên độ và s là pha của hàm sóng) được xem là mật độ của
chấ't lỏng biểu diễn h#t (p = p0m là mật độ khối lượng). Nếu s ố
hạng này bằng 0, phương trình chuyển động là thuần túy cổ
điển và hạt được xét (vôn được mô tả bằng phương trình
Schrödinger) chuyển động theo các quỹ đạo xác định. Nếu số
182