Page 185 - AllbertEstens
P. 185
hạng này tăng lên từ giá trị 0, các quỹ đạo của hạt sẽ bị lệch đi
so với quỹ đạo cổ điển và ta có các quỹ đạo lượng tử - một kiểu
diễn biến của hạt không có trong thế giới vĩ mô.
Như vậy lý thuyết của Bohm đã đưa ra được một cách mô
tả cụ thể diễn biên của hạt vi mô giống như trong cách mô tả
của vật lý học cổ điển: Hệ cần đo (thực tại vật lý) tồn tại không
phụ thuộc vào dụng cụ đo (người quan sát) và không có vấn đề
sự rút gọn của hàm sóng. Cái khác giữa lý thuyết cổ điển và lý
thuyết lượng tử chỉ là ỏ động lực học của các biếrì cấu hình, tức
là quỹ đạo cổ điển hay quỹ đạo lượng tử. Đồng thời nó còn là
một thí dụ cho thấy định lý von Neumann về không thể có các tham
sô" ẩn là không đúng (tham sô" ẩn đã được chỉ ra là vị trí, cũng tức là
quỹ đạo của hạt).
Cách giải thích cơ học lượng tử của Bohm còn tỏ ra thích
hợp với sự áp dụng lý thuyết lượng tử cho toàn bộ vũ trụ (vũ trụ
học lượng tử) vì nó không có khó khản về ngưòi quan sát theo
cách giải thích Copenhagen. Theo cách giải thích này thì vũ trụ,
để tồn tại, phải được quan sát, mà người quan sát thì lại là một
bộ phận của vũ trụ ! Chính vì thế, trong khoảng mười nám gần
đây, lý thuyết của Bohm đã được một sô" tác giả thử áp dụng trong
các công trình vể vũ trụ học.
Lý thuyết của Bohm có những khó khăn khi mỏ rộng cho
các hạt tương đối tính và trường lượng tử, song, ngay từ bản
thân nó, cũng đã có khó khăn nghiêm trọng mà đáng tiếặ nhiều
tác giả khi giới thiệu nó không nhắc đến. Đó là thê líiỢng tử
được xác định theo mật độ Po của tập hợp hạt nhưng tập hợp này
không phải là thực, vì chúng ta chỉ có một hạt thực chứ không
phải một sô lốn hạt thực tương tự.
Thế lượng tử xuất hiện trong lý thuyết của Bohm có thể
chứa đựng một điểu gì đó rất có ý nghĩa ("thế bí ẩn" như
Feynman đã gọi trong tập bài giảng của ông khi trình bày hiện
183,