Page 167 - AllbertEstens
P. 167
nêu lên trên cơ sở phân tích một sô" thí nghiệm tưởng tượng
(Gedankenexperiment trong tiếng Đức), thí dụ như thí nghiệm
với chiêc kính hiển vi của Bohr và Heisenberg dùng để quan sát
một electron bằng cách chiếu một photon vào nó, photon này lại
làm nhiễu electron (làm electron bị giật lùi) mà ta không thể
biêt được một cách chính xác.
Nguyên lý bất định thường được giải thích như sau: Các
biến động lực như vị trí, xung lượng, mômen xung lượng, v.v...
phải được xác định trên phương diện thao tác (operationally),
nghĩa là theo các cách thức thực nghiệm mà qua đó chúng được
đo. Trong vật lý vi mô, một phép đo luôn luôn làm nhiễu loạn
hệ; có một tương tác không thể tránh được giữa hệ và thiết bị đo.
Nếu ta cô đo vị trí của một hạt sao cho thật chính xác, ta sẽ làm
• • » . • *
nhiễu nó theo một cách nào đó khiến xung lượng của nó sau khi
đo là bất định. Nếu ta cô' đo thật chính xác xung híỢng của hạt,
ta lại làm nhiễu nó theo một cách nào đó khiến vị trí của nó sẽ
•
•
»
là bất định. Nếu ta cô' đo đồng thời vừa vị trí vừa xung lượng
của hạt thì hai phép đo này nhất thiết sẽ làm rối nhau theo
một cách nào đó mà độ chính xác của kết quả cuối cùng sẽ
tuân theo hê thức bất đinh.
# ■
»
II. NGUYÊN LÝ BỔ SUNG. CÁCH GIẢI THÍCH COPENHAGEN
« ►
Nguyên lý bất định và tính nhị nguyên sóng-hạt đã dẫn
Niels Bohr tới nguyên lý bổ sung là cơ sỏ của cách giải thích
cơ học lượng tử đã được chấp nhận bởi hầu như toàn bộ cộng
đồng vật lý. Cách giải thích này thường được gọi là cách giải
thích C openhagen vĩ nó xoay quanh nhà vật lý Đan Mạch N.
Bohr. Những gương mặt quan trọng khác được xem là gắn liền
với cách giải thích này là Heisenberg và Pauli, mặc dầu quan
niêm của hai ông này có những chỗ khác với Bohr. Ngoài ra còn
♦
165